Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Kenneth Todd Young và Ngô Đình Diệm: Sự ra đời của Liên minh Việt-Mỹ

Đầu năm 1954, ông cụ của tôi, Kenneth Todd Young, đương làm việc cho Bộ Ngoại giao Mỹ với chức Chủ Sở Đông-Bắc Á Châu vụ. Cụ tham gia cuộc thương lượng chắm dứt chiến tranh Triều tiên tại Pan Mun Jom. Sau khi Trung Quốc và Hoa Kỳ đồng ý ngưng chiến tại Triều tiên, và Chánh phủ Pháp quyết định không kéo dài chiến tranh kiểu xăm lăng thuộc địa tại Đông Dương nữa, các cường quốc đồng ý mở một hội nghị tai Genève để giải quyết hai vấn đề giữa thế giới tự do và khối cộng sản quốc tế.

Bố tôi đi Genève để phụ tá Ngoại trưởng John Foster Dulles trong nhiệm vụ chắm dứt chính thức chiến tranh Triều tiên. Sau việc đó xong rồi, Ngoại trưởng Dulles giao cho ông trách nhiệm về Đông Nam á để giải quyết sự ra đi của Chánh phủ Pháp tại Đông Dương.Ông đã thăm viếng Việt nam và Cao Miên lúc còn thanh niên năm 1937 để xem cho biết Hà nội, Sài gòn và Angkor Wat. Ngoài ra, ông không biết nhiều về Việt nam. Nhưng ông đã học tiếng trung hoa tại Quảng Châu và Bắc Kinh năm 1936 và hiểu biết được sự tranh quyền giữa đảng cộng sản tàu và chánh phủ quốc gia tàu. Ông đã nghĩ chủ nghĩa cộng sản không hợp với người á châu vi các dân tộc á châu đã có sẳn dân tộc tính, nền văn hóa lâu đời va tiếng nói riêng từ mấy ngàn năm trước. Ông nghĩ rằng chủ nghĩa mác-lê là thứ xa lạ từ Tây phương du nhập qua Á châu sẽ khó tránh khỏi sự xung đột văn hóa, tư tưởng. Vì vậy ông cũng nghĩ rằng chế độ thuộc địa âu châu của thể ký 19th cũng không có nghĩa lý gì nữa ở Đông Dương. Nó không thể tồn tại lâu dài. Các dân tộc á châu, theo ông, nên đi đến tự trị và chọn cho mình chế độ chánh trị độc lập như các dân tộc khác trên thế giới.


Tháng 7 năm 1954, Chánh phủ Mỹ phải lựa chọn một trong hai đường đối với Đông Dương. Một là theo Pháp để giúp duy trì ảnh hưởng của Pháp tại Việt nam, Cao miên và Lào. Thứ hai là ủng hộ thành lập các chánh phủ độc lập tại ba nước đó để tránh áp lực của người Pháp theo đuổi tham vọng lâu đời nhằm tái lập chế độ thuộc địa.
Cụ Young lựa chọn con đường thứ hai. Vậy là Hoa kỳ phải một lúc làm ba việc: ủng hộ các chánh phủ mới tại Sài gòn, Nam Vang và Vientianne; chống sự phá hoại, xâm lăng, của Hà nội và đảng cộng sản việt nam và đảng cộng sản trung quốc đồng thời nhờ đó khuyến khích người pháp dẹp bỏ chủ trương và hành động kiểu đế quốc cũ.
Lúc Trung Quốc đề nghị chia Việt Nam làm hai quốc gia: một cho đảng cộng sản và một giao cho người pháp cai trị, dĩ nhiên người pháp đồng ý, bố tôi bàn với Ngoại trưởng Dulles rằng Hoa Kỳ phải chấp nhận như vậy nên phải dốc lòng, dốc sức ủng hộ một Miền nam Việt nam độc lập tự do, có khả năng phòng thủ và chống lại cộng sản bắc việt. Ông Dulles đồng ý và quyết định chánh sách của Hoa kỳ tại Việt nam là ủng hộ những người Việt nam không cộng sản và đồng thời không ngã theo lập trường của Phap. Tức là chánh sách của Hoa Kỳ là đi tìm kiếm những người Việt nam “nationalist”, có tinh thần dân tộc mạnh.Cụ Young cũng nghĩ rằng nếu chánh phủ mới không tranh đấu cho quyền lợi đích thực của quốc gia dân tộc mà cứ làm tay sai cho Paris, dân miền nam sẽ không ủng hộ và Hà nội sẽ dễ xâm chiếm trọn nước Việt nam từ Lạng sơn đến Cà mau.Nếu người Việt nam có lòng ái quốc, biết rỏ các thủ đọan gian manh của cộng sản, muốn đẩy lui và thanh toán các nổ lực bạo động của cộng sản để bảo vệ phần đất cuối cùng của mình thì họ phải biết làm cho mọi người thấy rỏ chánh nghĩa quốc gia, thấy rỏ rệt và toàn diện, từ chánh trị tự do dân chủ đến kinh tế thật sự là nến kinh tế tư hữu lành mạnh và nền văn hóa giáo dục khoa học, khai phóng, nhơn bản áp dụng đồng đều từ thành thị đến xã ấp.


Lúc đó Cụ Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng Chánh phủ Quốc gia Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm. Cụ Young tìm hiểu về Ông Diệm và nghe nói Ông Diệm có tiếng chống Pháp. Tại Genève Ngoại trưởng việt nam là Cụ Trần văn Đỗ. Cụ Young làm quen Ông Đỗ và hai người trở thành bạn lâu năm. Năm 1970 ông Cụ tôi bịnh, không qua Việt nam được để tham dự lễ cưới của tôi, con trai đích tôn của ông, nên Cụ Đỗ đã vui lòng nhận lời đứng ra đại diện họ đàn trai.
Ông Cụ tôi có lúc nói với tôi rằng Ông Diệm vừa có lập trường vững vàng, không theo Pháp và không nhượng cộng sản và có được một số người quốc gia chống cộng, nhứt là những người Bắc di cư công giáo tín nhiệm, ủng hộ. Nên Cụ quyết định cho Ông Diệm một cơ hội để xem Ông Diệm có khả năng thật sự xây dựng Miền nam trở thành một quốc gia dân chủ tự do và phát triển được hay không.
Sau hội nghị Genève, người Pháp không thuận với chánh sách của Hoa kỳ. Hoa kỳ muốn người Pháp rút hết những viên chức của họ ra khỏi Việt nam và Mỹ sẽ đưa cố vấn tới thay thế. Hoa kỳ sẽ cho tiền và huấn luyện quân đội Miền nam Việt nam đủ sức ngăn chận quân đội bắc việt khi xâm nhập qua biên giới. Sau mấy tháng thương lượng với Chánh phủ Pháp, Cụ Young thấy rằng họ không có thiện chí giúp Miền nam đứng vững theo nghĩa một quốc gia độc lập.
young-gap-gm-thuc-young-chup-hinh
Young gặp Đức Giám Mục Ngô Đình Thục (Young chụp hình).
Vì vậy Cụ Young phải vận động Chánh phủ Mỹ để Hoa kỳ sẽ thương lượng với Pháp để Hoa kỳ một mình ủng hộ Chánh phủ của Ông Diệm. 


Tháng 10 năm 1954, Cụ Young soạn thảo một bức thơ để Tổng Thống Eisenhower gởi cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Trong thơ, Hoa Ky hứa sẽ ủng hộ Việt nam nếu Việt nam áp dụng đường lối chánh trị theo lý thuyết quốc gia dân tộc (tức “nationalist”), tức ý muốn nói Việt nam phải xây dựng một chế độ dân chủ Tự do thật sự để có thể động viên được sức mạnh của toàn dân chống cộng sản xâm lược hà nội. Bức Thơ đó viết:
“The purpose of this offer is to assist the Government of Vietnam in developing and maintaining a strong, viable state, capable of resisting attempted subversion or aggression through military means. The Government of the United States expects that this aid will be met by performance on the part of the Government of Vietnam in undertaking needed reforms. It hopes that … such a government (of Vietnam) would … be so responsive to the nationalist aspirations of its people, so enlightened in purpose and effective in performance, that it will be respected both at home and abroad and discourage any who might wish to impose a foreign ideology on your free people”.
Cuối năm 1954, Hoa kỳ bắt đầu gia tăng gởi viện trợ quân sự và kinh tế trực tiếp giúp chánh phủ Sài gòn, không thông qua chánh phủ pháp nữa. Dĩ nhiên chánh phủ pháp không vui lòng. Họ thấy Ông Diệm thật sự là người cứng rắn, có lập trường chống Pháp, không muốn nghe lời họ nữa. Vi vậy họ tìm cách hạ Ông Diệm để thay thế bằng người khác.

Tổng Tư lịnh pháp, Tướng Ely, vốn bạn khá thân với Tướng Collins của Mỹ, dành nhiều thì giờ thuyết phục ông bạn Tướng Collins, người Đại diện đặc biệt của Tổng Thống Eisenhower, rằng Ông Diệm bất tài, mưu sỉ, không thành thật, có tinh thần độc tài, không chịu lắng nghe ý kiến phải trái của ai hết cả, không có uy tín, không có quần chúng ủng hộ. Pháp xui Tướng Nguyễn văn Hinh chống lại Ông Diệm.

Đến tháng 4 năm 1955 có biến loạn xảy ra. Cuối cùng, Tướng Collins nghe theo Pháp và đi về Washington xin Tổng Thống Eisenhower không ủng hộ Ông Diệm nữa. Lúc Tướng Collins lên đường đi Washington, Ông Diệm ra lịnh cho Quân đội tấn công căn cứ của lực lực lượng võ trang của Bình xuyên ở Cầu Chữ Y. ( Lực lượng Bình xuyên, truớc tình hình mới, rủ áo giang hồ anh chị, nhiệt tình tham gia tham kháng chiến chống Pháp. Sau không chịu theo cộng sản hà nội, không chịu nổi áp lực của Tướng cộng sản Nguyễn Bình, chấp nhận thương lượng với Pháp rút về Chợ lớn, lập vùng Chợ lớn như khu tự trị để cán binh kháng chiến thuần túy, không cộng sản, có con đường trở về không bị mặc cảm về với Tây nhưng Pháp không giữ lới hứa để cho “ khu tự trịthật sự được tự trị ”, mà “ thực dân hóa ” lực lượng võ trang này. Từ đây, lực lượng Bình xuyên bắt đầu mang nhiều tai tiếng xấu do nhóm cán binh gây ra trong dân chúng. Nhưng lực lượng Bình xuyên khi về Chợ lớn, kiểm soát an ninh được vùng này, đẩy lui Việt minh ra khỏi ven đô khá xa, đã làm cho Nguyễn Bình bị Hà nội khiển trách và sau đó, triệu hồi về Bắc ).Về tới Washington, Tướng Collins họp với Tổng Thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles tại Tòa Bạch ốc. Tổng thống Eisenhower nhân nhượng trước những lời yêu cầu thiết tha của Tướng Collins và đồng ý trở lại họp tác với chánh phủ pháp, cho ngưng chức Thủ tướng của Ông Diệm, thay thế bằng Ông Phan Huy Quát.Ông Dulles về Bộ Ngoại giao chỉ thị cho Ông Cụ tôi gởi điện tín cho Tòa Đại sứ Hoa kỳ tại Sài gòn nói rằng Hoa kỳ không ủng hộ Ông Diệm nữa. Ông Cụ tôi rất buồn vì biết rằng nếu Pháp có quyền thực sự tại Miền nam nữa, thì chắc chắn Hà nội sẽ lại cướp luôn phần đất này. Đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Tuy nghĩ như thế nhưng bố tôi vẫn phải làm theo chỉ thị của cấp trên.Gởi điện tín xong, ông về phòng làm việc. Bổng có cú điện thoại của chính ông Ngoại trưởng Foster Dulles. Ông báo tin : “Tại cơ quan CIA, Ông Allen Dulles (em ruột của Ngoại trưởng Foster Dulles, lúc đó làm Giám đốc CIA ) mới nhận được một điện tín của Ed Lansdale gởi từ Sài gòn. Lansdale nói rằng Ông Diệm ra lịnh dẹp Bình Xuyên, Quân đội Quốc gia nghe theo lịnh đang đánh Bình Xuyên, và dân chúng Sài gòn ra đường mừng và ủng hộ quân đội (?). Yêu cầu Allen cho biết quyết định phải làm thế nào bây giờ”.Cụ Young lập tức gọi Ông Allen Dulles. Hai ngườii lấy quyết định không bỏ Ông Diệm vì nếu bỏ Ông Dìệm lúc này chỉ có lợi cho Pháp và sau đó, khó tránh sẽ bị Pháp buông ra cho cộng sản hà nội.Sau đó, ông Cụ tôi phụ trách về “ Chánh sách liên hệ giữa Hoa kỳ và Việt nam Cộng hòa ”. Ông qua Việt nam mấy lần nghiên cứu tình hình. Ông đã gặp Cụ Diệm riêng mấy lần. Cụ cũng có dịp gặp Ông Bà Ngô Đình Nhu, Giám mục Ngô Đình Thục, và nhiều người lớn trong chánh phủ nữa.
Sau này, ông Cụ tôi nói rằng Ông Diệm là người tốt, khá thông minh, lương thiện, tỏ ra có khả năng, có thể dám hy sinh cho quyền lơi của dân tộc, biết suy nghĩ, biết lo cho người làm ruộng, làm việc chăm chỉ, hết mình. Nhưng ông Cụ tôi đã thấy sớm rằng Ông Ngô Đình Nhu có ảnh hưởng bao trùm lên chế độ. Nhiều lúc Cụ gặp mặt Ông Diệm có Ông Nhu nữa. Nhiều khi, lúc Ông Diệm đương nói, Ông Nhu chen vào, dành nói hết, không để khách nghe riêng lời nói của ông Tổng Thống. Có khi Ông Nhu cải với Ông Diệm hay cắt lời của Ông Diệm đang nói mà Ông Diệm vẫn im lặng.
Ông Cụ tôi trọng Ông Diệm là người đứng đắng và quí mến ông vì ông tỏ ra thành thật với ông Cụ tôi. Ông Diệm có vẻ tin ông Cụ tôi vì Cụ đã ủng hộ ông ấy vô điều kiện trong biến cố tháng 4 năm 1955.
Lần cuối cùng mà ông Cụ tôi gặp mặt Cụ Diệm là đầu năm 1963 tại phòng khách ở Dinh Gia long, Sài gòn. Phòng đó ở trên lầu hai cùa dinh Gia long. Ông Diệm lo lắng lắm về sự nhượng bộ của Hoa kỳ ở Lào, việc này do Ông Averill Harriman phụ trách vì ông Harriman không thích chống cộng ở Đông Nam Á. Hiệp định Genève 1962 về Lào không bắt buộc Hà nội rút ra khỏi Lào. Như vậy, Ông Diệm biết Hà nội sẽ dùng đường mòn Hồ Chí Minh vượt qua Lào để đẩy mạnh sự xâm lăng ngầm Miền nam nhằm đánh lừa dư luận thế giới rằng cuộc chiến ở Miền nam chỉ là cuộc chiến tranh du kích do nhơn dân Miền nam bất mản nổi dậy chống Mỹ Ngụy cứu nước. Nói chuyện xong rồi, Cụ Diệm đưa ông Cụ tôi ra khỏi phòng khach, tới đầu cầu thang đi xuống. Cụ Diệm bắt tay ông Cụ tôi và nói bằng tiếng pháp: “ Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho tới khi họ …”. Và lúc đó, Cụ Diệm đưa tay mặt lên làm bộ cầm súng và bắn một viên đạn vào đầu ông.
Trên đây là những kỷ niệm đẹp của ông Cụ tôi giử riêng đối với Cụ Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu Cụ Diệm về lập chánh phủ do sự bổ nhiệm của Quốc trưởng Bảo Đại.

Không biết phải chăng vì ảnh hưởng bố tôi mà tôi năng duyên nợ với Việt nam, một đất nước xa xôi với quê hương của tôi? Sau này, trong những năm cuối 60 và đầu 70, tôi tới Việt nam làm việc cho chương trình CORDS – chương trình đặc biệt của Hoa kỳ về bình định và phát triển xã ấp. Trong chức vụ cố vấn an ninh và phát triển, tôi tiếp xúc, quen biết nhiều giới chức VNCH trong đó có các bạn của bố tôi như Bs Trần văn Đỗ, Bs Phan Huy Quát và những đảng viên Đại việt Quốc dân đảng, Việt nam Quốc dân đảng, những nhơn sĩ từng ủng hộ Cụ Diệm khi về chấp chánh. Tôi cũng để thì giờ tìm hiểu về các tôn giáo như Đạo Phật, Cao Đài và Hòa Hảo nữa. Qua sự quen biết này, tôi bắt đầu tìm hiểu về chế độ Đệ I Cộng hòa. Tôi cũng tìm đọc thêm nhiều thông tin liên quan đến Cụ Diệm và gia đình của Cụ. Tôi thấy bản thân Cụ là người trong sạch, không tham nhũng. Nhưng Cụ nặng tình gia đình, nặng tinh thần phân biệt đối xử, phán quyết độc đoán, nên đã để mất sự thuận lợi của tình hình lúc ban đầu cho thế đại đoàn kết dân tộc ; điều này chắc chắn đã không tránh khỏi góp phần tạo ra sự lớn mạnh nhanh chóng của việt cộng mà hậu quả vô cùng thảm hại sau này.Riêng Đại việt, với Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Ông Nguyễn Ngọc Huy liên lạc viên giữa hai người, đã từng hợp tác chặt chẻ với Ông Ngô Đình Nhu, Giám mục Ngô Đình Thục, …trong giải pháp Bảo Đại từ những năm 40. Thế mà những người này và nhiều nhơn sĩ khác như các Ông Vũ Tam Anh, Nguyển Phan Châu, Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân, …kẻ bị giết, người phải bỏ chạy trốn ra nước ngoài. Hai ông Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy phải đi bán hủ tiếu ở đường Montagne Ste Geneviève, Paris, cho tới sau 1963 mới có cơ hội hồi hương.

Tôi nhớ lại năm 1967, lúc tôi đương học tiếng việt tại “ Việt nam Training Center ”, ở Arlington, Virginia, tôi được mấy lần gặp Ông Bà Trần văn Chương tại nhà riêng ở Chevy Chase, Washington, DC. Ông Chương là cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa kỳ. Ông Bà là bố mẹ của Bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của Ông Ngô Đình Nhu, Cố vần của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Một hôm, Ông Chương mời tôi uống trà với ông tại phòng ăn. Tôi hỏi Ông Chương tại sao Ông Diệm có vẻ không tin ai ngoài gia đình. Ông Chương cười và đáp: “Ông Diệm không tin chính ông thì thử hỏi làm sao tin người khác được?” Một buổi khác nữa, Ông Chương tiết lộ một chuyện, tôi cho là rất quan trọng và rất đặc biệt. Trước cuộc đảo chánh 1/11/1963 độ 10 hôm hay một tuần, Ông Diệm nhận thấy ông không còn đủ uy tín để tiếp tục chức Tổng thống. Tình hình phức tạp quá, khó tìm người ủng hộ ông hết mình. Ông Diệm có ý từ chức và xuất ngoại để Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lên thay. Lúc đó, Bà Nhu đang ở ngoại quốc vận động dư luận thế giới ủng hộ đường lối của chánh phủ Sài gòn. Sau khi Ông Diệm nói ra quyết định từ chức, Ông Nhu gọi điện thoại cho Bà Nhu báo tin quan trọng này. Lúc đó Bà Nhu đang ở Nhựt bổn. Ông Nhu cho vợ biết rằng ông và Ông Diệm sẽ xuất ngoại và ông sẽ gặp bà ở Nhựt trong vài ngày nữa.Bà trả lời với sự giận dử, lớn tiếng, chửi chồng nặng nề, nói rằng nếu hai người (Ông Nhu và Ông Diệm) hèn như thế, nhác như thế, thì bà sẽ không làm vợ Ông Nhu nữa. Bà nhắc Ông Nhu rằng lúc cuộc chỉnh lý 1960, cả hai người đều muốn chịu thua phe đảo chánh, chỉ có bà là không chịu thua và nhứt định giữ lập trường cứng rắng bảo vệ chế độ bằng cách đi kiếm các tướng lãnh trung thành để cứu mình. Bà nhấn mạnh với Ông Nhu rằng bà không bao giờ muốn làm vợ người không đủ can đảm, đủ tài trí đối phó với hoàn cảnh khó khăn. Bà chỉ làm vợ kẻ anh hùng chớ không thể làm vợ kẻ tiểu nhơn được. Ông Nhu nghe những lời vợ nói như vậy và không cải lại được một lời nào hết. Ông phải dẹp bỏ ý định đi ra nước ngoài lánh nạn với Ông Diệm, ở lại giử Dinh Gia long theo ý bà vợ muốn. Ông Diệm cũng nghe theo em.

Một chuyện khác về Ông Diệm và Ông Nhu. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một lần cho tôi biết, thời gian1954/1955, chính Ông Diệm muốn có sự hợp tác của Bs Nguyễn Tôn Hoàn trong chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng. Ông Diệm nhờ Ông Nhu mời Ông Hoàn. Ông Nhu không liên lạc với Ông Hoàn, trái lại nói dối với Ông Diệm rằng Ông Hoàn từ chối, không muốn ủng hộ chánh phủ của Ông Diệm. Nghe qua, Ông Diệm tức giận lắm. Vì sự hiểu lầm này mà Ông Diệm đã không ngăn cảng Ông Nhu khi đàn áp các đảng phái và cả Đại Việt.Buồn, tiếc ! Nhưng tôi cũng hiểu, và hiểu rỏ, trong chánh trị có ai là bạn muôn thuở, có ai là kẻ thù muôn đời bao giờ đâu. Chánh trị chỉ là “mục tiêu” !Nhưng theo nhà triết lý Hy- lạp thời xưa, số mạng được hiểu theo đức tính “character is destiny”. Đức tính của Ông Ngô Đình Diệm, như đức tính của mọi người, có phần thuận lợi và có phần bất lợi. Ông làm được một số việc lịch sử có giúp ích cho dân tộc của ông, nhưng có một số việc khác ông làm không đúng theo sự mong đợi của dân.
Thi hào việt nam Nguyễn Du đã viết: 
“Trăm năm trong cõi người ta, 
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. 
Trải qua những cuộc bể dâu, 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ”.

Sau 50 năm, từ sự ra đi của Cụ Ngô Đình Diệm, tôi cảm thấy đời người dường như không khỏi bị hệ lụy theo số mạng do Trời Đất xếp đặt sẳn, như Cụ Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta. 

 Stephen B. Young
St Paul, Minnesota, Oct 27, 2013
Việt Báo . 03.01.1914

Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ


Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn sách "con đường thiên lý" (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.

Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.


Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông.

Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.


Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.

Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần". Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: "Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế".

Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19

Đàn Chim Việt  3.10.2013 / Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê


Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014

Một định chế khác cho những người đồng tính sống chung?

Thiện Ý . 23.10.2014
Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới của Giáo hội Công giáo La Mã đã kết thúc sau 2 tuần nghị hội về nhiều vấn đề của Giáo hội liên quan đến tín lý đức tin, với sự tham dự của khoảng 200 vị giám mục trên khắp thế giới tụ về. Một trong những vấn đề được bàn thảo trong nghị hội là vấn đề hai người đồng tính sống chung như vợ chồng nhưng không phải là vợ chồng như mục đích, ý nghĩa và định nghĩa bao lâu nay về hôn nhân lưỡng tính được xã hội và giáo hội nhìn nhận. 


Văn kiện đúc kết nghị hội đã được công bố hôm Thứ Bảy 18-10-2014 cho thấy lập trường quan điểm của Giáo hội Công giáo về vấn đề đồng tính sống chung vẫn không thay đổi, mặc dầu khuynh hướng cấp tiến đã có nhiều nỗ lực trong nghị hội được thể hiện trong dự thảo văn kiện đúc kết lần đầu, là “sự chấp nhận và quí trọng xu hướng tính dục (của người đồng tính)” và dành cho người đồng tính “một ngôi nhà mà họ cảm thấy được chào đón tử tế.”. Thế nhưng kết quả sau cùng vẫn chỉ được ghi nhận trong văn kiện đúc kết cuối cùng có tính chất tổng quát rằng người đồng tính “nên được hoan nghênh với sự tôn trọng và nhạy cảm” và “nên tránh” việc kỳ thị người đồng tính. Nghĩa là chỉ cảm thông chứ không chấp nhận sự sống chung giữa hai người khác phái như vợ chồng, vì trái với quy luật sáng thế, tạo dựng con người của Đấng Tạo hóa hay Thiên Chúa.

Thật ra, vấn đề đồng tính không chỉ gây bất đồng trong nội bộ Giáo hội Công giáo mà từ lâu đã, đang, vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi trong công luận toàn cầu nói chung, nói riêng tại các quốc gia có đòi hỏi hợp pháp hóa các cặp đồng tính sống chung bằng cách gán ghép vào định chế “hôn nhân lưỡng tính” gọi là “Hôn nhân đồng tính”.  
Trong phạm vị nhận thức cá nhân, khoảng gần hai năm trước đây chúng tôi đã có dịp trình bầy quan điểm trong một văn thư gửi cho Quốc hội, Chính phủ và Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và cả Quốc hội Việt Nam. Nay xin được trình bày lại để gửi đến quý độc giả đài VOA như sau.

Chúng tôi nhận thức và quan niệm rằng, đồng tính luyến ái là một hiện tượng xã hội đã phát sinh từ lâu nơi đời sống của một số cá nhân không bình thường về tâm sinh lý, qua nhiều thời đại bị che dấu vì coi đó là một hiện tượng trái qui luật tự nhiên và quan niệm đạo đức, luân lý xã hội, hay là điều tội lỗi bị kết án theo tôn giáo.  

Thế nhưng, theo tiến trình phát triển của con người và xã hội loài người theo chiều hướng các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền phải được tôn trọng, bảo vệ và hành xử, để mọi người không phân biệt giai tầng xã hội, phái tính, sắc tộc, tín ngưỡng hay tôn giáo có quyền tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân bằng mọi cách, miễn không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các cá nhân khác, không phương hại đến trật tự an toàn xã hội.  

Trong thời đại hiện nay, chiều hướng phát triển trên đã đạt tình trạng phổ quát trên phần đông các quốc gia dân chủ trên thế giới. Và vì vậy, hiện tượng “đồng tính luyến ái” đã không còn bị che dấu và kết án như xưa, mà nay đã được cảm thông, công khai hóa ở nhiều nơi và vẫn đang có nỗ lực vận động, tranh đấu cho quyền được hợp pháp hóa cuộc sống chung giữa các cặp đồng tính luyến ái.  

Hoa Kỳ có thể coi là quốc gia đã đạt tới đỉnh cao của chiều hướng phát triển các quyền tự do dân chủ, dân sinh, nhân quyền, trong đó quyền tự do cá nhân gần như tuyệt đối được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. Và vì vậy, có thể coi Hoa Kỳ là quốc gia đã đi tiên phong trong việc công khai hóa hiện tượng “đồng tính luyến ái” và có chiều hướng muốn hợp pháp hóa thực trạng sống chung của các cặp đồng tính luyến ái bằng việc áp dụng định chế “hôn nhân lưỡng tính” (The both sexes, hermaphrodite marriage) sẵn có, gọi là “Hôn nhân đồng tính”(Homosexuel marriage, the same sex marriage). 

Đến đây, một vấn đề đặt ra: Tại sao các nhà làm luật không nghĩ đến một định chế khác, thay vì gán ghép định chế hôn nhân lưỡng tính cho những cặp đồng tính?
Lý do cần phải có một định chế khác cho những cặp đồng tính sống chung là vì có sự khác biệt hoàn toàn với cặp vợ chồng trong hôn nhân lưỡng tính về mục đích và ý nghĩa của sự sống chung.

    Sống chung giữa hai người nam & nữ trong hôn nhân lưỡng tính: là sự luyến ái tự nhiên theo qui luật âm dương, để tìm hạnh phúc trong khoái cảm được thỏa mãn tình dục tự nhiên (tâm sinh lý phổ quát với mọi người) có ý nghĩa làm tiền đề cho sự truyền sinh (sinh con đẻ cái), duy trì và phát triển sự sống lành mạnh cho con người trên hành tinh này, như những người kế thừa có đủ sức khỏe, năng lực làm chủ bản thân, gia đình, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, vũ trụ…
    Trong khi cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam hay nữ & nữ là sự luyến ái trái qui luật âm dương, chỉ cốt tìm hạnh phúc trong khoái cảm được thỏa mãn tình dục trái tự nhiên (tâm sinh lý đặc thù với một số người do bẩm sinh hay do hoàn cảnh sống), không có ý nghĩa truyền sinh dù có nhu cầu muốn có con cái, song phải thỏa mãn bằng cách khác (như xin nhận con nuôi) từ nguồn hôn nhân lưỡng tính. 
   
 
Mặc dầu cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam hay nữ & nữ cũng có những điểm tương đồng với cuộc sống chung giữa hai người nam & nữ trong hôn nhân lưỡng tính như:

    Cùng sống chung, ngủ chung, hoạt động tình dục trái tự nhiên,ăn chung, sinh hoạt hàng ngày như một gia đình trong hôn nhân lưỡng tính dưới một mái nhà.
    Cùng có tài sản chung hay tài sản riêng, với các chi phí chung và riêng cho các nhu cầu chung sống, sinh hoạt hàng ngày.
    Và cũng có những bất đồng trong cuộc sống chung đưa đến những mâu thuẫn, xung đột có thể đưa đến kết thúc sự sống chung với các hệ quả phải giải quyết về thực tế cũng như pháp lý giống như cặp hôn nhân lưỡng tính một khi phải ly hôn không thể tiếp tục sống chung.   


Thật ra những điểm tương đồng chung chung như trên không phải là động lực chủ yếu của những cặp đồng tính sống chung đòi được hợp pháp hóa như định chế hôn nhân lưỡng tính.Theo nhận định của chúng tôi có lẽ những quyền lợi về tài sản và phúc lợi xã hội có được từ cuộc sống chung có tính ổn định, lâu dài của hôn nhân lưỡng tính, khiến những cặp đồng tính sống chung cũng muốn có được bảo đảm về mặt pháp lý như định chế hôn nhân lưỡng tính. Có lẽ vì vậy mà trong cuộc phỏng vấn của ABC News hôm Thứ Tư 11-5-2012 Tổng thống Obama đã nói đại ý rằng trước đây Ông do dự một phần vì nghĩ rằng những cặp đồng tính chỉ cần được sống chung là đủ, nay thì cần phải có một định chế cung cấp các quyền như là quyền chữa trị bệnh tật… Trong khi một bà đồng tính ở Cedar Rapids nhận xét: lời lẽ của ông Obama là rất quan trọng, vì bà và người bạn đồng tính sống chung biết rằng hôn thú có nghĩa gì với những cặp cùng giới tính - sau khi mất việc trong năm qua, bà và con nuôi được hưởng các phúc lợi từ bảo hiểm ngườì bạn đồng tính chung sống này.  

Tuy nhiên, tất cả những điểm tương đồng dù có là động lực chủ yếu hay không chủ yếu nêu trên của những cặp đồng tính sống chung, vẫn có thể được giải quyết bằng một định chế khác hơn là cưỡng ép vào định chế hôn nhân lưỡng tính hiện hành. Đó là công việc của các nhà làm luật Hoa Kỳ nói riêng và các quốc gia đang có và muốn giải quyết vấn nạn xã hội này nói chung.  

Chẳng hạn, các dân biểu Hoa Kỳ có thể đệ trình dự án luật để được lưỡng viện quốc hội (Liên bang hay Tiểu bang) thông qua “Luật Đồng Tính” (The Law on homosexsuel persons) cho toàn Liên bang hay cho từng Tiểu bang, áp dụng cho những người đồng tính sống chung. Nội dung định nghĩa rõ mục đích và ý nghĩa cuộc sống chung giữa hai người đồng tính,tương quan quyền lợi và nghĩa vụ sống chung, chế độ tài sản (cộng đồng hay biệt sản), sự tạo mãi, xử dụng, quân phân, thừa kế, chế độ nhận con nuôi chung (đồng cha nuôi hay đồng mẹ nuôi) hay riêng (Nếu chỉ một trong hai người nhân con nuôi)…

Theo thủ tục lập pháp hiện hành, nếu sau khi được lưỡng viện Quốc hội thông qua, “Luật Đồng Tính” sẽ được Tổng thống Hoa Kỳ (nếu là Luật Đồng Tính Liên bang) hay Thống Đốc (nếu là Luật Đồng Tính Tiểu bang) ban hành để trở thành luật có tính cưỡng hành đối với tất cả những cặp đồng tính sống chung. Còn các cặp lưỡng tính sống chung như vợ chồng dù có lập hôn thú hay không (hôn nhân thực tế) có con cái hay không đều phải tuân thủ và được bảo vệ của luật hôn nhân gia đình (The law on marriage and family) hiện hành tại Hoa Kỳ.

*Tóm lại: Mục đích và ý nghĩa của hôn nhân từ lâu đã được quan niệm và thực hành: là sự kết ước tự do sống chung giữa hai người nam & nữ luyến ái nhau, cùng chung hưởng khoái cảm tình dục để truyền sinh và chung hưởng hạnh phúc gia đình, tế bào căn bản của xã hội gồm vợ, chồng và con cái được cha mẹ sinh ra hay con nuôi.  

Mục đích và ý nghĩa trên hoàn toàn khác với mục đích và ý nghĩa của cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam và nữ & nữ, dù có một số điểm tương đồng về hiện tượng và hệ quả, song không thể đồng hóa với cuộc sống hôn nhân của hai người lưỡng tính. Có thể coi đây chỉ là một kết ước dân sự phổ quát (Civil contract) khác với kết ước dân sự đặc thù của hôn nhân lưỡng tính (civil marriage) là sự kết hôn (join in marriage) hay kết duyên để trở thành vợ chồng (join in wedlock, become husband and wife).  

Và vì vậy không thể gọi cuộc “sống chung” giữa hai người đồng tính là “hôn nhân”, mà phải gọi bằng một từ ngữ khác hơn cho đúng thực chất, chẳng hạn gọi là “cộng sinh đồng tính” hay “đồng tính sống chung” và đừng cưỡng ép vào định chế hôn nhân lưỡng tính hiện hành mà gọi là “hôn nhân đồng tính”.

Giải pháp hợp tình, hợp lý nhất là các nhà làm luật Hoa Kỳ nói riêng và các nhà làm luật của các quốc gia đang có vấn nạn “đồng tính luyến ái” cần gấp rút soạn thảo luật lệ riêng áp dụng cho những cặp đồng tính sống chung. Có như thế mới chấm dứt được tình trạng phân hóa, bất bình trong đa số quần chúng nhân dân, trong các chính quyền, giáo hội và sớm ổn định được tình trạng pháp lý cho thiểu số những người dân đồng tính có nhu cầu sống chung để mưu cầu hạnh phúc cá nhân, với các quyền và lợi ích hợp pháp được Hiến pháp công nhận và cần được luật pháp bảo vệ.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.




Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

NÓNG: Báo chí phương tây loan tin Kim Jong-un đã bị lật đổ




NÓNG: Báo chí phương tây loan tin Kim Jong-un đã bị lật đổ

Kim Jong-un đã bị lật đổ. Thanh trừng đang diễn ra

Đăng Bởi Một Thế Giới - 07:15 04-10-2014

Lãnh đạo Kim Jong-un thị sát doanh trại quân đội

Các báo phương Tây khuya 3.10 đồng loạt đưa tin: lãnh đạo CHDCND Triều Tiên Kim Jong-un có thể bị quân đội lật đổ và đưa ra khỏi Bình Nhưỡng, vào lúc thủ đô nước này nhận lệnh đóng cửa, nội bất xuất ngoại bất nhập.
Các nước láng giềng của Triều Tiên sẽ theo dõi kỹ những sự kiện ngày 10.10 tới, để kỷ niệm ngày thành lập đảng Lao động Triều Tiên. Nếu lãnh đạo Kim không xuất hiện vào dịp này, thì tin đồn về sức khỏe của ông sẽ lại bùng lên, không thể tránh được.

Một cuộc thanh trừng khác đang diễn ra ?
Chưa có thông tin cụ thể về khả năng đảo chính, nhưng các nhà phân tích về Triều Tiên nói yếu tố không ai được ra hoặc vào Bình Nhưỡng rất có thể chỉ ra một âm mưu đảo chính.
Vấn đề là một cuộc đảo chính đang sắp hình thành, hay là đã bị lãnh đạo Kim bóp chết ?
Kim, 31 tuổi, là lãnh đạo tối cao Triều Tiên từ 3 năm nay, đã tiến hành thanh trừng nhiều cán bộ lão thành để củng cố địa vị, theo báo Telegraph.
Nên việc hạn chế ra vào thủ đô có thể mang nghĩa một nhóm đảo chính-chưa rõ tên-đang nắm quyền kiểm soát Bình Nhưỡng, hoặc Kim lại đang tiến hành một cuộc “xử lý nội bộ” các đối thủ khác trong bộ phận lãnh đạo.
Theo Telegraph, hồi tháng 12.2013, Kim đã xử tử chú dượng Jang Song Thaek (chồng của cô của Kim) về tội phản quốc.
Gần đây, hai cán bộ cấp cao ở Ủy ban quốc phòng đã bị giáng chức: Phó chủ nhiệm Ủy ban quốc phòng Choe Ryong-hae và Jang Jong-nam được “phân công nhiệm vụ khác”, theo hãng thông tấn KCNA.
Không rõ việc này có liên quan vụ đóng cửa Bình Nhưỡng.
Giáo sư Toshimitsu Shigemura (Nhật Bản) là một chuyên gia của đại học Waseda (ở Tokyo) nói với tờ Telegraph hôm 3.10:
“Động thái này cho thấy có thể đã có một âm mưu đảo chính, hoặc chính quyền đã phát hiện những âm mưu chống lại lãnh tụ.
Nếu là một cuộc đảo chính có sự ủng hộ của quân đội, thì tình hình ở Bình Nhưỡng sẽ rất nguy hiểm, và tôi nghe có tin Kim đã bị đưa ra khỏi thủ đô.
Một lý do khác là có thể một số quan chức cấp cao của chế độ toan đào thoát, nên chính quyền đóng tất cả các đường thoát như sân bay và biên giới”.
Kim Jo-jong, em gái của lãnh đạo Kim

Tên phản quốc nói Kim là "lãnh đạo bù nhìn"
Ngày 30.9, trang News Focus International đưa tin đầu tiên về cuộc kiểm soát chặt Bình Nhưỡng đã bắt đầu từ ngày 27.9, và áp dụng đối với những người thuộc “giai cấp ưu tú”.

Bên cạnh đó, lãnh đạo Kim đã không xuất hiện trước công chúng kể từ sau ngày 3.9. Gần đây có tin Kim Jo-jong, em gái Kim là nhân vật số 2, tạm điều hành đất nước.
Trang tin tức trên nói họ không thể nêu có phải việc Kim “có vấn đề về sức khỏe” là lý do để đóng cửa Bình Nhưỡng hay không. Mới đây, Bình Nhưỡng xác nhận lãnh tụ Kim đau cả hai mắt cá chân vì “vi hành, thăm dân quá nhiều”.
Theo báo Daily Mail (Anh) dẫn lời một cựu sĩ quan tình báo Triều Tiên, thì Kim đã bị mất quyền lực, nay chỉ là “lãnh đạo bù nhìn”.
Cựu sĩ quan Jang Jin-sung từng phục vụ trong cơ quan tuyên truyền của cố lãnh tụ Kim Jong-il (cha của Kim trẻ) và đã trốn khỏi Triều Tiên.
Jang tin tưởng chế độ Bình Nhưỡng hiện tại sẽ sớm sụp đổ trong tương lai gần, và lãnh đạo Kim có thể bị thay bởi người anh Kim Jong-nam 43 tuổi (bị Kim cha phớt lờ) hoặc bởi người anh Kim Jong-chul, 33 tuổi.

Cựu sĩ quan Jang Jin-sung
Theo trang Vice News, Jang bất ngờ cho biết như vậy, tại một cuộc hội thảo quy tụ những cán bộ Triều Tiên lưu vong ở Hà Lan hồi tháng 9. Hội thảo này gồm có một cựu sĩ quan quân đội cấp cao, một cựu quan chức Bộ an ninh và nhiều nhà ngoại giao Triều Tiên.

Jang nói Kim thực tế đã bị lật đổ từ năm 2013, và quyền lực hiện trong tay Phòng tổ chức-hướng dẫn (OGD) vốn chỉ báo cáo trực tiếp với cố chủ tịch Kim Jong-il. Jang còn nói mọi hoạt động chính trị ở Triều Tiên đều do OGD “giật dây”.
Jang nói Triều Tiên đang như có nội chiến, giữa một số cán bộ muốn giữ nguyên trạng chế độ hiện tại, nhưng một số khác lại muốn mở cửa đón nhận chủ nghĩa tư bản.
Ông ta nói: “Một mặt, những cán bộ muốn duy trì chế độ, mặt khác, có những người không chống chế độ, nhưng họ muốn tranh thủ tình hình để giành ảnh hưởng. Thật sự không phải là một cuộc nội chiến, nhưng đang có hai nhóm bất đồng tư tưởng”.
Giáo sư Remco Breuker của Viện nghiên cứu Triều Tiên ở đại học Leiden (Hà Lan) nơi tổ chức cuộc hội thảo này, cùng quan điểm với Jang: “Quyền lực thật sự trong tay OGD. Cơ quan này phục vụ Kim trẻ nhưng chủ yếu phục vụ di sản Kim cha”.
Mai Hà (tổng hợp)




Nhân vật số 2 (sau Kim Jong Un) đang viếng thăm Nam Hàn

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Chiếm Trung không hẳn là Thiên An Môn của Hong Kong

Chiếm Trung không hẳn là Thiên An Môn của Hong Kong

Một người biểu tình giơ hai tấm bảng có nội dung 'Chiếm Trung' (trái) và 'Bất tuân Dân sự' trước hàng rào cánh sát chống bạo động bên ngoài trụ sở chính phủ ở Hong Kong, 27/9/2014,

bởi al-Pessin

Dưới đây là bài phân tích của Al Pessin thông tín viên VOA tại châu Âu.
Al Pessin là thông tín viên VOA tại Hong Kong từ năm 1984 đến năm 1987, và thông tín viên tại Bắc Kinh từ 1987 đến 1989. Ông bị trục xuất khỏi Trung Quốc vì các bài tường thuật về biểu tình và trấn áp tại Thiên An Môn.
London, ngày 1 tháng 10, 2014 – Hôm nay là kỷ niệm 65 năm ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, và nước này đang phải đối mặt với một vụ khủng hoảng khác về lai lịch, tuy rằng vụ khủng hoảng này nằm ở Hong Kong.
Cách đây 25 năm, Trung Quốc còn là một nước tương đối trẻ với nhiều rối loạn trong lịch sử ngắn ngủi của mình. Khi hàng triệu công nhân thuộc mọi tầng lớp gia nhập với sinh viên phản kháng đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn và trên khắp nước, giới lãnh đạo rõ ràng là bất an đã đàn áp tàn bạo, gửi quân đội đến trấn dẹp quảng trường và vây bắt người hoạt động trên cả nước.
Các chuyên gia Tây phương nói hàng ngàn người đã bị giết, có thể còn nhiều hơn nữa. Trung Quốc thì nói không có ai chết ở quảng trường Thiên An Môn.
Phong trào đó tập trung ở ngay giữa lòng Bắc Kinh, cách trụ sở ban lãnh đạo kín cổng cao tường không xa. Sau nhiều tuần biểu tình ngày càng lớn, giới lãnh đạo đã quay trở lại với lý thuyết Cộng sản cổ điển và kết luận rằng các cuộc biểu tình là một hình thức ‘làm loạn” đe doạ đến vị thế cai trị của Đảng. Họ đã hành động quyết liệt và chấm dứt nó một cách tàn bạo.
Điều đang xảy ra ở cựu thuộc địa tương đối cô lập của Anh là Hong Kong có phần hơi khác.
Nhà cựu ngoại giao Anh Roderic Wye, công tác tại Đại sứ quán Anh ở Bắc Kinh trong thập niên 1980 và 1990, nay đang làm việc với tổ chức Chatham House ở London, có nhận định:
“Điều đang xảy ra ở Hong Kong vào lúc này, sẽ không đe dọa đến chính sự hiện hữu của Nhà nước Trung Quốc theo cách mà Thiên An Môn đã có.”
Và cho đến nay, Trung Quốc đã tỏ ra tự chế hơn trong việc chỉ trích các cuộc biểu tình “Chiếm Trung” và chỉ nói rằng các cuộc biểu tình ấy là “bất hợp pháp” và "gây nguy hại cho pháp trị và phá hoại ổn định xã hội,” theo lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Xuân Oánh.
Nhưng ông Wye nói các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy có sự khẩn thiết nào đó phải chấm dứt các cuộc biểu tình.
Trong một cuộc phỏng vấn với đài VOA, ông Wye nói, “Rõ ràng họ không muốn có một thứ tương tự xảy ra tại Trung Quốc, bởi vì, đúng thế, chúng ta có thể trở lại một tình huống tương tự như Thiên An Môn. Và đó là điều mà chính phủ Trung Quốc sẽ cố hết sức để ngăn tránh.”
​​
Theo ông Wye, mặc dù vụ đàn áp Thiên An Môn đã đè nén được sự bất đồng ở Trung Quốc trong 25 năm qua, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không muốn sử dụng chiến thuật tương tự ở Hong Kong.
“Nếu họ có sự can dự của Cảnh sát Vũ trang Nhân dân hay quân đội Trung Quốc thì thực sẽ là sự kết thúc chính sách ‘Một quốc gia, Hai chế độ,’ và tôi không cho rằng đó là điều họ muốn vào lúc này.”
Giáo sư Nghiên cứu về Trung Quốc Francoise Lauwaert của Trường Đại học Tự do ở Brussels nói: “Tôi nghĩ đó là một thách thức rất lớn và quả là một tình huống khó xử. Toàn bộ Trung Quốc đang theo dõi Hong Kong, và các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể lo sợ về một thứ bệnh lây nhiễm cho chế độ.”
Cho đến giờ thì điều đó chưa xảy ra. Bà Lauwaert nói với đài VOA: “Có thể người dân Trung Quốc cần một khoảng thời gian để hiểu những gì đang xảy ra. Và cũng có thể đối với họ, Hong Kong có hơi đặc biệt, cho nên họ không cảm thấy quan tâm nhiều về tình hình ở Hong Kong.”
Và từ phía bên kia, ông Roderic Wye nói có một “lai lịch Hong Kong dường như ngày càng tăng.”
Ông nói: “Cái cảm tưởng ‘hơi khác’ có phần trái ngược với sự trông đợi, đã gia tăng thay vì giảm đi từ năm 1997.”
Và cái “khác” đó có thể giúp các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngăn chặn phong trào đòi dân chủ Hong Kong lan tràn, theo bà Francoise Lauwaert. “Tôi nghĩ họ có thể nói rằng Hong Kong là một xã hội hậu thuộc địa hoặc họ đã bị ô nhiễm vì người Tây phương.”
Nhưng có tiềm năng cho một ảnh hưởng tế nhị hơn. Bà Lawaert nói: “Tôi không chắc rằng đa số người dân ở Trung Quốc muốn có bầu cử tự do. Nhưng họ quan tâm đến cách tranh đấu cho những đề tài cụ thể hơn đặc biệt đối với tình huống của họ.”
Bà nói, “Cách thức người Hong Kong tụ tập và cách thức họ tự tổ chức có thể đem lại cho họ một vài khái niệm.”
Và ông Roderic Wye cho rằng người dân Hong Kong cũng có một số đề tài khác trong đầu, tỷ như một hệ thống giáo dục kiểu Tây phương hơn và bầu cử trực tiếp cơ quan lập pháp, cũng như hành chính trưởng quan của họ.
Ông nói, “Cho dù có một giải pháp, và ta hãy hy vọng có được một giải pháp, vì vấn đề cũng sẽ chưa hết bởi vì đó chỉ là một bước thôi.”
Quy chế Khu vực Hành chính Đặc biệt của Hong Kong phát xuất từ hơn 100 năm thuộc địa Anh, và bản tuyên bố chung giữa Anh và Trung Quốc để giao hoàn Hong Kong cho Trung Quốc, thương nghị vào năm 1984 và được thực thi năm 1997.
​​
Khái niệm mở đường về “Một Quốc gia, Hai chế độ” nảy sinh từ nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó là ông Đặng Tiểu Bình. Khái niệm là Hong Kong sẽ tiếp tục với hệ thống kinh tế tư bản và lối sống Tây phương trong khi đặt dưới sự cai trị của Cộng sản Trung Quốc. Ông Đặng không muốn thành phố thành đạt nhất của Trung Quốc bị suy đồi ngay vào lúc ông tìm cách đưa phần còn lại của đất nước lên tới trình độ của Hong Kong.
Khái niệm cũng bao gồm một hệ thống chính trị tách biệt cho Hong Kong, với các mức độ tự do và dân quyền mà các công dân Trung Quốc khác không có, và vẫn chưa được hưởng.
Nhưng bản Tuyên ngôn chung rất mơ hồ về vấn đề dân chủ, nói rằng dân chúng Hong Kong sẽ có tiếng nói trong việc chọn vị hành chính trưởng quan thông qua “các cuộc bầu cử hay hội ý,” nhưng quan chức này sẽ được bổ nhiệm bởi chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Tuyên ngôn cũng nói rõ rằng cơ quan lập pháp địa phương sẽ được chọn qua các cuộc bầu cử, nhưng không xác định ai có quyền được bỏ phiếu hay ra tranh cử.
Trong những ngày tàn của chế độ thuộc địa, các giới chức Anh bắt đầu mở rộng dân chủ ở Hong Kong, và trong khi tiến trình đó tiếp tục sau khi Tuyên ngôn Chung được thương nghị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không lấy làm hài lòng.
Từ quan điểm của Trung Quốc, “người Anh dường như muốn thay đổi cơ bản thỏa thuận mà phía Trung Quốc cảm thấy họ đã bị ép buộc ký,” theo nhận định của ông Wye.
Ông nói: “Phía Anh đã trì trệ muốn đưa một số yếu tố mới của chính trị dân chủ vào Hong Kong. Phía Trung Quốc cảm thấy họ đã bị ép buộc thừa nhận, ‘không thay đổi cho Hong Kong,’ nhưng là Hong Kong của năm 1985.”
Thoạt đầu, Trung Quốc chấp nhận những thay đổi, nhưng sau phong trào Thiên An Môn và vụ trấn át năm 1989, cùng các cuộc biểu tình ở Hong Kong ủng hộ phong trào, quan điểm của hai bên về tương lai dân chủ của thành phố này đã khác đi.
Sau năm 1997, Trung Quốc đề xuất một số cải cách để mở rộng thêm dân chủ ở lãnh địa. Nhưng họ không đi xa tới mức mà những người hoạt động ngày nay mong muốn. Cụ thể là, tuy đã mở rộng quyền đi bầu để cho tất cả mọi người đến tuổi được bỏ phiếu bầu ra hành chính trưởng quan mới, Trung Quốc vẫn muốn có một ủy ban trung thành để quyết định ai được quyền ra tranh cử. Đó chính là lý do châm ngòi cho các cuộc biểu tình mới nhất.
Một số người ở Anh Quốc vẫn cảm thấy có trách nhiệm đặc biệt đối với Hong Kong, sau khi được giao hoàn mới có 17 năm.
​​
Phó Thủ tướng Nick Clegg nói: “Giới hữu trách ở Bắc Kinh dường như quyết chí từ chối đem lại cho người dân Hong Kong những gì họ hoàn toàn có quyền trông đợi, đó là các cuộc bầu cử tự do, công bằng và cởi mở dựa trên quyền phổ thông đầu phiếu.”
Bộ trưởng Tài chính George Osborne nói thêm: “Tôi nghĩ sự thịnh vượng và tương lai của Hong Kong tuỳ thuộc vào một số trong các quyền tự do phản kháng và quyền tự do tham chính.”
Toà Bạch Ốc cũng đưa ra những tuyên bố tương tự:
Phát ngôn viên Toà Bạch Ốc Josh Earnest nói: “Hoa Kỳ ủng hộ quyền phổ thông đầu phiếu ở Hong Kong và chúng tôi ủng hộ các nguyện vọng của nhân dân Hong Kong.” Ông nói thêm “Chúng tôi tin tưởng rằng một xã hội cởi mở với mức độ tự trị cao nhất và đặt dưới pháp trị là điều cấp thiết cho sự ổn định và thịnh vượng của Hong Kong.”
Tại Brussels, bà Francoise Lauwaert nói phương Tây không có bất cứ trách nhiệm đặc biệt nào đối với Hong Kong vì quy chế thuộc địa trước đây. Thay vì thế, bà nói, “Người Tây phương có một trách nhiệm đối với Trung Quốc nói chung.”
Bà nói tiếp, “Trung Quốc đã trở thành một cường quốc rất lớn và một sức mạnh kinh tế rất lớn và không có gì nói về Nhân quyền và dân chủ ở Trung Quốc. Đối với tôi, đấy không phải vì Hong Kong là một thuộc địa. Đúng hơn ấy là vì chúng ta có một trách nhiệm đối với Hong Kong và đối với Tân Cương và đối với Trung Quốc nói chung.”
Nhưng có rất ít thứ mà Anh Quốc, Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào khác có thể làm, ngoài việc cố gắng gây áp lực cho Trung Quốc để bảo vệ Nhân quyền và tránh bạo động.
Các vấn đề của Hong Kong hoàn toàn thuộc về nội bộ Trung Quốc. Chúng tôi kêu gọi các nước liên hệ nên thận trọng về lời nói và việc làm, tự chế trước việc can dự vào nội bộ Hong Kong, dưới mọi hình thức
Phát ngôn viên Trung Quốc Hoa Xuân Oánh
​​
Và tại Bắc Kinh, nữ phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh còn bác bỏ cả điều đó.
Bà nói với các phóng viên ở Bắc Kinh: “Các vấn đề của Hong Kong hoàn toàn thuộc về nội bộ Trung Quốc. Chúng tôi kêu gọi các nước liên hệ nên thận trọng về lời nói và việc làm, tự chế trước việc can dự vào nội bộ Hong Kong, dưới mọi hình thức, và chớ nên ủng hộ các hoạt động bất hợp pháp như ‘Chiếm Trung’ hay gửi đi bất cứ tín hiệu sai trái nào.”
Sự tăng trưởng kinh tế mau chóng của Trung Quốc trong mấy thập niên vừa qua đã khiến cho Hong Kong trở nên bớt quan trọng hơn trong tư cách một đầu máy thương mại và tăng trưởng, do đó quy chế đặc biệt của Hong Kong có thể bớt phần quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Song đồng thời, họ có thể lại quan ngại hơn về phản ứng của nước ngoài về cách thức họ xử lý các cuộc biểu tình này hơn so với vụ đàn áp Thiên An Môn. Trung Quốc hoà nhập hơn vào nền kinh tế toàn cầu so với 25 năm trước, khiến nước này có tiềm năng dễ bị tổn thương hơn đối với các biện pháp chế tài có thể theo sau một vụ trấn áp bằng bạo lực.
Nhưng ngoài bất cứ phản ứng mạnh hơn nào của Trung Quốc và sự đáp lại của Tây phương, người biểu tình ở Hong Kong, đa số chưa ra đời cách đây 25 năm, sẽ phải đích thân đối mặt với chính quyền, cũng giống như những người đi trước ở Quảng trường Thiên An Môn. Họ chỉ có thể hy vọng rằng các giới chức ở Bắc Kinh vào năm 2014 nhìn thấy các đòi hỏi của họ dành cho khu vực nhỏ bé của họ là có thể xử lý được, chứ không phải là một hình thức đe dọa theo nhận định của thế hệ các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây vào năm 1989.
​​
http://www.voatiengviet.com/content/chiem-trung-khong-han-la-thien-an-mon-cua-hong-kong/2469607.html