Nguyễn Hưng Quốc (VOA) - Việt
Nam vẫn chơi một trò rất lưu manh: Trước sức ép của Mỹ, họ thả một số
người nhưng lại bắt một số người khác. Đó là điều họ từng làm. Tôi chỉ
hy vọng, hiện nay, trước những thử thách sinh tử của đất nước, họ sẽ
không chơi cái trò lưu manh vặt ấy nữa. Nếu không, cơ hội để cứu Việt
Nam ra khỏi ách Bắc thuộc rất dễ biến thành mây khói.
*
Các sự kiện dồn dập xảy ra giữa Việt Nam với Mỹ thời gian vừa qua, từ
chuyến thăm Mỹ của Phạm Quang Nghị, ủy viên Bộ chính trị đến chuyến thăm
Việt Nam của hai thượng nghị sĩ Mỹ, John McCain và Sheldon Whitehouse,
cho thấy triển vọng nâng cấp quan hệ giữa hai nước từ hợp tác toàn diện
đến đối tác chiến lược có vẻ như gần kề. Ba sự kiện chính có thể sẽ xảy
ra như là hệ quả của việc nâng cấp này là: Một, hiệp định thương mại
xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể sẽ được ký kết sớm; hai, Việt Nam có
thể sẽ được phép mua các loại vũ khí sát thương của Mỹ; và ba, quan
trọng nhất, Mỹ sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong việc giúp đỡ Việt Nam
đối phó với những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc trên Biển
Đông.
Nếu tất cả các điều trên được diễn ra một cách suôn sẻ thì quả là một
việc đáng mừng cho Việt Nam. Lý do đơn giản là Việt Nam không thể chống
cự lại Trung Quốc một cách có hiệu quả nếu không có, một, vũ khí tối
tân, và hai, sự giúp đỡ từ Mỹ.
Về vũ khí, lâu nay Việt Nam chủ yếu mua từ Nga, nhưng ở đây lại có vấn
đề: Nga không phải chỉ bán vũ khí cho Việt Nam mà còn bán cho cả Trung
Quốc nữa. Hậu quả là những gì Việt Nam có, Trung Quốc cũng đều có. Hơn
nữa, nhờ giàu hơn, Trung Quốc có thể mua vũ khí từ Nga với số lượng lớn
hơn hẳn Việt Nam. Đó là chưa kể, sau mấy chục năm tập trung vào việc
phát triển kỹ thuật quân sự, vũ khí do Trung Quốc tự chế tạo cũng có
trình độ kỹ thuật rất cao. Đứng về khía cạnh vũ khí, Việt Nam không có
lựa chọn nào khác ngoài việc mua từ Mỹ. Tuy nhiên, việc mua ấy sẽ không
thể thành hiện thực được nếu chính phủ Mỹ vẫn bị ràng buộc bởi lệnh hạn
chế bán các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam vốn kéo dài từ mấy chục
năm nay.
Về đồng minh, lâu nay có vẻ như Việt Nam cố gắng ve vãn nhiều quốc gia
nhưng thành thực mà nói, một, không có nước nào sẵn sàng đứng bên cạnh
Việt Nam và chia lửa với Việt Nam trong trận đối đầu với Trung Quốc; và,
hai, nếu muốn, họ cũng không đủ sức. Ngay trong khối ASEAN, những nước
có thể đứng về phía Việt Nam cũng rất ít ỏi. Việt Nam chỉ có thể đi với
những quốc gia có quyền lợi xung đột với Trung Quốc như Philippines,
Malaysia và Brunei. Nhưng cả bốn nước hợp lại vẫn không phải là đối thủ
với Trung Quốc. Đó là chưa kể giữa bốn nước này, mâu thuẫn về chủ quyền
trên biển và đảo vẫn khá gay gắt. Ở châu Á, chỉ có hai quốc gia thực sự
mạnh về cả kinh tế lẫn quân sự là Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng do những
ràng buộc về pháp lý, Nhật Bản không thể đưa quân sang giúp Việt Nam
trong trường hợp có chiến tranh. Trong khi đó, Hàn Quốc ở cái thế cũng
rất bấp bênh: Trung Quốc có thể sử dụng Bắc Hàn để ngăn chận mọi nỗ lực
quân sự của Hàn Quốc trong việc chống cự lại Trung Quốc.
Bởi vậy, dù thích hay không thích, Việt Nam cũng nên thừa nhận một điều:
quốc gia duy nhất có thể giúp đỡ Việt Nam trước sự đe dọa của Trung
Quốc không ai khác hơn là Mỹ. Quan hệ đồng minh với Mỹ là con đường duy
nhất để tự vệ của Việt Nam.
Lấn cấn duy nhất của mối quan hệ ấy là quá khứ chiến tranh giữa hai
nước. Đối với chính phủ Mỹ, thật ra, đó không phải là vấn đề. Tất cả các
chính khách Mỹ đều theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) và thực tế
(realism). Câu châm ngôn cửa miệng của họ là: không có bạn vĩnh viễn
cũng không có kẻ thù vĩnh viễn; chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh viễn.
Do đó, chính phủ Mỹ sẵn sàng bắt tay với Việt Nam, kẻ thù cũ của họ, để
bảo vệ Biển Đông. Họ không bảo vệ Việt Nam. Họ chỉ bảo vệ Biển Đông. Và
vì Biển Đông, họ sẵn sàng xem Việt Nam là một đồng minh chiến lược.
Nhưng trên thế giới, quan hệ đồng minh nào cũng dựa trên hai hoặc một trong hai nền tảng: quyền lợi và sự tin cậy.
Giữa Việt Nam và Mỹ hiện nay có rất nhiều điểm chung về quyền lợi: Cả
hai đều cần Biển Đông. Với Việt Nam, đó là vùng biển của Việt Nam, là
một trong những nguồn lợi tức lớn của Việt Nam về phương diện kinh tế
đồng thời cũng là danh dự và lòng tự hào dân tộc của Việt Nam về phương
diện tinh thần. Với Mỹ, đó là con đường hàng hải quan trọng vừa có ý
nghĩa về kinh tế vừa có ý nghĩa về quân sự. Mỹ cần bảo vệ Biển Đông,
nhưng việc bảo vệ đó trở thành khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả
nếu Việt Nam chấp nhận nhượng bộ hoặc đầu hàng Trung Quốc.
Tuy nhiên, một thứ quan hệ dựa trên quyền lợi không thể kéo dài và cũng
không đủ mạnh để lôi kéo Mỹ. Nền tảng thứ hai của quan hệ đồng minh bao
giờ cũng là sự tin cậy. Sự tin cậy trong chính trị khác với sự tin cậy
giữa hai cá nhân vốn chỉ dựa vào tính cách. Trong chính trị, sự tin cậy
chỉ được xây dựng trên nền tảng của những bảng giá trị chung cả hai quốc
gia đều chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên mà các quan hệ đồng minh sâu sắc
và bền vững chỉ có thể tìm thấy giữa các quốc gia gần gũi với nhau về
văn hóa, như giữa Mỹ và Anh, Úc, Tân Tây Lan, hoặc nhạt hơn một chút,
giữa Mỹ và các quốc gia khác ở Âu châu. Cũng không phải ngẫu nhiên mà
trong quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ lâu nay, Mỹ
luôn luôn đưa vấn đề nhân quyền ra như một điều kiện. Không phải Mỹ muốn
cứu một số cá nhân đang bị giam giữ trong nhà tù. Với chính phủ Mỹ,
những cá nhân ấy hoàn toàn vô nghĩa. Điều quan trọng nhất là Mỹ muốn
thấy ở Việt Nam những sự chia sẻ chung về các bảng giá trị văn hóa: tôn
trọng quyền con người. Hơn nữa, chính phủ Mỹ cũng muốn dân chúng Mỹ nhận
thấy điều đó.
Có thể nói trở ngại chính trong việc nâng cấp quan hệ đồng minh giữa
Việt Nam và Mỹ không phải ở Trung Quốc hay bất cứ nước nào khác mà chính
là dân chúng Mỹ. Không nên quên vết thương của nhiều người Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam với 58.000 người chết vẫn chưa lành hẳn. Cái gọi là
hội chứng Việt Nam trong một số thành phần dân chúng Mỹ vẫn còn sâu
đậm. Những người ấy không dễ dàng để mặc cho chính phủ Mỹ muốn làm gì
thì làm. Họ có những yêu sách của họ. Một trong những yêu sách ấy là:
Việt Nam xứng đáng để làm bạn và để được bảo vệ. Việc tôn trọng nhân
quyền là một thước đo chính. Không có một chính trị gia nào ở Mỹ dám bất
chấp yêu sách chính đáng ấy của dân chúng Mỹ.
Chắc chắn Việt Nam sẽ đáp ứng một số yêu sách về nhân quyền của chính
phủ và dân chúng Mỹ bằng cách thả một số tù nhân chính trị hiện đang bị
họ giam giữ. Tuy nhiên, vấn đề là họ có thực tâm hay không. Cho đến nay,
về vấn đề này, Việt Nam vẫn chơi một trò rất lưu manh: Trước sức ép của
Mỹ, họ thả một số người nhưng lại bắt một số người khác. Đó là điều họ
từng làm. Tôi chỉ hy vọng, hiện nay, trước những thử thách sinh tử của
đất nước, họ sẽ không chơi cái trò lưu manh vặt ấy nữa. Nếu không, cơ
hội để cứu Việt Nam ra khỏi ách Bắc thuộc rất dễ biến thành mây khói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét