Uẩn khúc Hội nghị Thành đô: Lòng tin và sự minh bạch
RFI . 10.08.2014 Hội nghị Thành đô 1990
Những ngày này dư luận xã hội nóng lên bởi tin Đảng CSVN đề nghị để "Việt Nam gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" như là một khu vực tự trị giống như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...".
Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, đến lúc này thực hư ra sao chưa biết,
nhưng ngoài đường, ngoài chợ người ta bảo nhau chỉ còn 6 năm nữa thôi,
năm 2020 là Việt Nam sẽ gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Nghĩa là Việt nam sẽ trở thành một khu tự trị hay một tỉnh thuộc chính
quyền trung ương Trung quốc. Tin đồn
Được biết đây là tin từ bản Kiến nghị"Có hay không một thỏa thuận bán nước"của
Thiếu tướng Lê Duy Mật, Nguyên Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 2
và Tư lệnh Mặt trận Hà Giang trong các năm 1979-1984 - Đảng viên 57 năm
tuổi đảng, gửi Ban CHTW và Bộ Chính trị, yêu cầu công bố các văn bản
của Thỏa hiệp Thành Đô năm 1990 giữa hai Đảng CS Việt nam và Trung quốc
để cho nhân dân biết. Trong bản Kiến nghị của mình, Thiếu tướng Lê Duy
Mật đã công bố nội dung của một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô, mà ông cho
rằng có nguồn gốc từ tin của Tân hoa xã Trung Quốc và báo Hoàn cầu Thời
báo. Với nội dung một phần của “Kỷ Yếu Hội Nghị” như sau: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng
Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối
bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun
đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước
do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp
trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một
khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc
đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và
cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải
quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các
dân tộc Trung Quốc.”. (Hết trích) Hoàn cảnh ra đời của Hội nghị Thành Đô
Việt nam và Trung quốc là hai quốc gia cộng sản có quan hệ mật thiết,
gắn bó với cùng nền tảng tư tưởng là ý thức hệ cộng sản. Trong giai
đoạn 1949-1975, Trung quốc đã giúp Việt nam rất nhiều về người và của,
đặc biệt là về mặt quân sự trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
và thống nhất đất nước. Sau năm 1975, quan hệ giữa hai nước Việt nam và
Trung quốc đã có các bất đồng sâu sắc, mà đỉnh cao là cuộc chiến Biên
giới phía Bắc năm 1979. Khi Trung quốc đã đưa 60 vạn quân tiến đánh và
xâm nhập sâu vào lãnh thổ Việt nam trên tòan tuyến biên giới Việt -
Trung trong thời gian gần một tháng trước khi rút. Vào thời điểm đó Việt
nam đã Sửa đổi Hiến pháp năm 1980, xác định và ghi rõ Trung quốc là kẻ
thù trực tiếp và nguy hiểm.
Trong bối cảnh, từ cuối năm 1989 cho đến đầu năm 1990, hệ thống XHCN ở
các nước cộng sản Đông Âu lần lượt sụp đổ, điều này đã gây mối lo ngại
cho lãnh đạo Đảng CSVN, họ đã đứng ngồi không yên vì hết đường, không
biết bấu víu vào ai. Ban lãnh đạo Đảng CSVN hết sức lo lắng cho sự đổ vỡ
của chế độ và cuối cùng họ đã buộc phải tính nước bắt tay lại với người
đồng chí Trung quốc vốn là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của mình.
Hội nghị Thành Đô ra đời trong hoàn cảnh ấy, vào ngày 3 - 4.9.1990,
tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã diễn ra cuộc họp
thượng đỉnh giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam - Trung Quốc. Cuộc họp với mục đích bình thường hóa quan hệ
giữa hai nước và hai Đảng. Thành phần tham dự, về phía Việt Nam gồm có
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố
vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng. Phía Trung quốc là
Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng,
Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc. Đáng chú ý, cho đến nay các thông tin
về cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước
Hội nghị Thành Đô 1990 được cho là mở đầu một giai đoạn bất bình
thường mới trong quan hệ Việt – Trung. Ông Nguyễn Trung, nguyên Thư ký
của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đánh giá là một thất bại nhục nhã của Việt
nam, đồng thời nó trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối
với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của
Việt nam. Còn ông Nguyễn Cơ Thạch , nguyên Ủy viên Bộ Chính trị - Bộ
trưởng Bộ ngoại giao lúc ấy đã nhận định về thỏa thuận Thành Đô 1990
rằng "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự." Thái độ của chính quyền Việt nam sau Hội nghị Thành Đô
Sau Hội nghị Thành Đô, quan hệ ngoại giao giữa Việt nam và Trung quốc
đã nhanh chóng được bình thường hóa và phát triển. Do nắm bắt được các
điểm yếu được coi là tử huyệt sống còn của Đảng CSVN, chính quyền Trung
quốc đã dần gia tăng sức ép và đòi hỏi Việt nam đi từ nhượng bộ này đến
nhượng bộ khác. Đắc biệt là trong vấn đề lãnh thổ và lãnh hải. Với “Hiệp
định phân định biên giới Việt-Trung” và "Hiệp định phân chia vịnh Bắc
bộ" được coi là một sự thất bại của Việt Nam, vì nó gây thiệt hại cho
Việt Nam đến 227 km2 trên đất liền và 211.000 km2 trên biển, đặc biệt là
Việt nam đã nhượng cho Trung Quốc những vùng biển có giá trị về kinh tế
và chiến lược. Điều đáng tiếc, những địa danh lịch sử như Ải Nam Quan,
vốn của Việt nam thì nay nằm sâu trong lãnh thổ Trung quốc 500m hay Thác
Bản Giốc thì bị buộc phải chia cho Trung quốc một nửa.
Trên biển, trước Hội nghị Thành Đô thì ngư dân Việt nam tiến hành
đánh bắt hải sản trên ngư trường truyền thống của mình, kể cả khu vực
quần đảo Hoàng sa mà không hề gặp trở ngại nào. Nhưng kể từ sau Hội nghị
Thành Đô, thì công việc làm ăn của họ bị lực lượng Kiểm ngư, Hải giám
của Trung quốc cản trở, bắt giữ người và phương tiện, thậm chí bị bắn
chết như trường hợp các ngư dân ở Thanh hóa. Song phía Việt nam đã không
có hoặc có những phản ứng rất yếu ớt, không dám nói đích danh là tàu
Trung quốc mà chỉ dám gọi là tàu nước lạ. Trên biển thì như thế, còn
trên bộ thì Trung quốc đã lợi dụng danh nghĩa đầu tư để thuê các khu vực
rừng đầu nguồn, hay tham gia các dự án đầu tư ở những khu vực quan
trọng về quốc phòng trong thời gian 50-70 năm, thậm chí 120 năm. Bauxite
Tây nguyên ở nóc nhà Đông Dương, Đặc khu Vũng Áng... với hàng nghìn
công nhân Trung quốc là những ví dụ điển hình. Về chính trị thì chính
quyền thẳng tay đàn áp, bắt bớ bỏ tù những người bày tỏ thái độ chống
Trung quốc như blogger Điếu cày, bloggger Phạm Viết Đào hay nhà dân chủ
Phạm Thanh Nghiên v.v... Không những thế họ còn cho trấn áp thô bạo các
cuộc biểu tình chống Trung quốc do người dân tổ chức.
Tóm lại sau 24 năm Hội nghị Thành Đô, kết quả phía Trung quốc đạt
được cho đến nay là: họ đã thò bàn tay nhớp nhúa vào rất sâu không chỉ
là khống chế đối với nền kinh tế của Việt nam, mà kể cả việc thao túng
các lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng CSVN dưới chiêu bài xây dựng CNXH.
Phải chăng đó là các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia
đình các dân tộc Trung Quốc, điều mà phía Trung Quốc đã đồng ý cho Việt
Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết ? Phản ứng của dư luận
Những bằng chứng kể trên thì buộc người ta phải nghi ngờ về những
thỏa thuận từ Hội nghị Thành Đô. Việc các lãnh đạo cao cấp giữa hai nước
họ đã bàn và thỏa thuận những gì thì chưa ai biết, nhưng trên thực tế
cho thấy có những dấu hiệu Đảng CSVN đã và đang tự biến mình, cũng như
cam tâm trở thành một chư hầu của Trung quốc. Điều đó càng thấy rõ hơn
qua sự kiện giàn khoan HD-981 khi Việt nam chần chừ, rồi không dám khởi
kiện Trung quốc ra Tòa án Quốc tế.
Hầu như các thông tin về Hội nghị Thành Đô đã được Đảng CSVN và chính
quyền giữ kín một cách tuyệt đối, đây là điều được coi là tuyệt mật, là
vùng cấm. Thậm chí kể cả các Đại biểu Quốc hội và các đảng viên trong
Đảng cũng không hề hay biết một chút gì, cho dù nội dung của nó liên
quan đến vận mệnh của đất nước. Do vậy, trong một xã hội thiếu công khai
minh bạch thì đây chính là đất sống cho các tin đồn. Kể cả tin đồn "Việt Nam gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" như là một khu vực tự trị giống như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây.."
cũng không là ngoại lệ. Và sự tuyệt đối im lặng của ban lãnh đạo và
truyền thông nhà nước trước tin đồn này càng làm cho những tin đồn bất
lợi như thế gần với sự thật hơn, vì không phải họ nói "im lặng là đồng ý hay sao?"
Vào lúc này, không chỉ ở ngoài đời thường mà cả trên mạng xã hội
người ta bàn tán về tin này với sự hoài nghi cao độ và với những sự giải
thích khác nhau. Đáng chú ý là tin đồn này diễn ra sau khi câu chuyện
Công hàm công nhận chủ quyền lãnh hải cho Trung quốc của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng sau một thời gian dài bị chính quyền Việt nam bưng bít, đã được
công khai từ phía Trung quốc, trong sự kiện giàn khoan HD-981 mà phía
Việt nam đã phải công khai thừa nhận. Khi phía Trung quốc đưa ra và coi
đó là bằng chứng chính quyền Việt nam đã công nhận chủ quyền của Trung
quốc đối với hai quần đảo Trường sa- Hoàng sa của Việt nam. Điều đó cho
thấy không có gì là bí mật, nhất là khi điều tuyệt mật đó đang do Trung
quốc - kẻ thù nắm giữ và bị họ biến thành thứ vũ khí để đe dọa và uy
hiếp ban lãnh đạo Đảng CSVN. Những bí mật ấy, không chỉ nhằm để chia rẽ
nội bộ Đảng CSVN, mà còn phân hóa người dân và chính quyền để họ không
còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền
Phản ứng của các nhân sĩ trí thức và 61 Đảng viên kỳ cựu gần đây nhất
đã đòi hỏi nhà nước phải bạch hóa sự kiện Thành Đô, mà theo họ cho biết
họ không hề có hy vọng nhận được sự công khai minh bạch của nhà nước.
Nhưng họ muốn thông qua các Thư ngỏ, Kiến nghị... nhằm để đánh động dư
luận xã hội và thức tỉnh người dân trước nguy cơ Việt nam có thể biến
thành một thuộc quốc. Điều quan trọng là cần công khai sự thật để đập
tan luận điệu của bọn vẫn được gọi là 4 tốt, 16 chữ vàng giữa hai Đảng
CS Việt nam và Trung quốc.
Vì vậy đối với mọi người dân, bây giờ thì thông tin từ Hoàn cầu Thời
báo hay Nhân dân Nhật báo nêu trên là hoàn toàn có cơ sở. Vì họ cho rằng
điều này khá phù hợp với dư luận gần đây cho rằng sở dĩ chính quyền
Việt nam có các hành động phản ứng, phản kháng hết sức yếu ớt trước các
hành động lấn át của Trung quốc là vì chính quyền Trung quốc đã nắm được
tử huyệt của chính quyền Việt nam. Đó là các tin tức được coi là tuyệt
mật về các thỏa thuận bí mật, mà phía Trung quốc cho rằng khi họ "bật
mí" sẽ có khả năng làm sụp đổ chế độ hiện nay ở Việt nam. Vậy phải chăng
tin đồn nói trên là một trong các tin tức tuyệt mật đó? Và còn bao
nhiêu những điều tuyệt mật giữa hai Đảng, hai nhà nước Việt nam - Trung
quốc sẽ được giải mật trong thời gian tới? Kết:
Nói về lòng tin của quần chúng đối với Đảng CSVN, đầu năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng "Niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ đang bị suy giảm do tệ tham
nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Nhưng tôi tin, nhân dân bao dung vẫn tin và kỳ vọng nếu Đảng kịp
thời chỉnh đốn. Tuy vậy, không được lạm dụng lòng tin của nhân dân."
Nghĩa là Đảng sẽ tự đánh mất quyền lực hoặc sụp đổ nếu niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ không còn. Song ngay cả việc bưng bít
hay thiếu minh bạch về những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước
cũng đã và đang dần làm xói mòn lòng tin của nhân dân
Việc một bộ phận không nhỏ các cán bộ, đảng viên tham nhũng, lãng
phí, suy thoái đạo đức lối sống... làm cho niềm tin của người dân vào
Đảng CSVN đã suy giảm là một thực tế không thể chối cãi. Song đó chỉ là
chuyện quá nhỏ nếu so với điều mà tin đồn cho rằng, lãnh đạo Đảng CSVN "...
bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính
quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây
Tạng, Quảng Tây….". Vì đó nếu điều đó có thực thì sẽ là hành động
bán nước cho Trung quốc, điều mà không có ai mang trong mình giòng máu
Lạc Hồng có thể chấp nhận được.
Còn nhớ lời của Vua Trần Nhân Tông có nói rằng: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Đó là tội phải chu di tam tộc".
Không biết ban lãnh đạo Đảng CSVN nghĩ gì về điều này? Còn chờ gì
nữa, sao họ không lên tiếng để bác bỏ tin đồn có hại này, bằng cách bạch
hóa toàn bộ "Kỷ yếu Hội nghị" của Hội nghị Thành Đô với nhân dân để xây
dựng lòng tin nếu như tin trên là tin đồn nhảm. Chứ không thể im lặng
một cách đáng ngờ như hiện nay, để người dân hoang mang mất lòng tin như
vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét