Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

Kinh tế Nga tiến gần tới khủng hoảng

 Hà Tường Cát / Người Việt

Wednesday, November 26, 2014 5:36:11 PM 

HOA KỲ
 – Cuộc đối đầu giữa NATO và Nga đã kéo dài gần 9 tháng, với những biện pháp trừng phạt và trả đũa kéo dài giữa hai phía, mà chưa có dấu hiệu gì cho thấy sẽ đi đến kết thúc.

Nhưng có lẽ các giới lãnh đạo Tây Phương và Tổng Thống Vladimir Putin đều chưa nhận thức được rõ rằng, đằng sau những biểu hiện bề ngoài ít thấy chuyển biến, nguy cơ lớn nhất của nước Nga là nền kinh tế đang tiến nhanh đến gần khủng hoảng.
.
Tổng Thống Vladimir Putin không thiếu những khó khăn phải đương đầu, do từ tình thế và rất nhiều do chính ông gây nên.
.
Trong khi nước Nga luôn luôn thiếu an ninh vì hoạt động nổi dậy và khủng bố của dân Hồi Giáo tại vùng biên giới, thì chính quyền Nga vẫn tiếp tục yểm trợ cho cuộc chiến đấu đòi ly khai.ở miền Đông Ukraine. Hành động vụng về không đúng lúc đúng chỗ của Liên Âu và Ukraine đã tạo điều kiện cho Tổng Thống Putin thâu hồi lại bán đảo Crimea, đồng thời kích động phong trào dân tộc Nga bùng phát.
.
Bằng sự kiện ấy, uy tín của ông Putin lên rất cao, sự chống đối của những phe phái đối lập mất hiệu lực, nhưng để duy trì được thành quả ấy, dù muốn dù không, ông phải hỗ trợ các cộng đồng dân Nga ở Ukraine và không thể bỏ rơi họ. Việc này cuối cùng trở thành một gánh nặng, đưa đến những phức tạp về ngoại giao và tác động vào hoạt động kinh tế, mà thời gian càng kéo dài ông Putin càng bị khó khăn hơn.
.
Sau khi Liên Xô tan rã, nền kinh tế Nga trải qua giai đoạn suy sụp trước khi hồi phục và phát triển ở thời kỳ giá dầu lửa lên cao. Hai nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Putin khi thác được lợi thế ấy nhưng hiện nay dầu lửa mất giá và sức mạnh dựa trên xuất cảng dầu lửa của Nga bị suy giảm nặng. Trên thị trường thế giới, giá dầu thô từ $110 một thùng hồi đầu năm, hiện nay xuống còn dưới $80.
.
Dầu lửa chiếm 2/3 trị giá xuất cảng của Nga, nước xuất cảng dầu lửa đứng hàng thứ nhì trên thế giới, sau Saudi Arabia. Trung bình một ngày Nga xuất cảng khoảng gần 5 tỷ thùng dầu thô, như vậy dầu lửa rẻ làm Nga thua thiệt hàng tỷ dollars mỗi tháng. Trong vòng ba tháng, đồng rouble mất giá 23%.
.
Nga cũng không thể thoát khỏi tác hại do những biện pháp trừng phạt của Tây Phương. Các ngân hàng quốc tế thi hành những biện pháp hạn chế không chỉ với một số người thân cận của Putin mà còn với vây cánh của họ ở giới kinh doanh. Qua nhiều năm dưới thời Vladimir Putin, nền dân chủ của nước Nga đi tới tình trạng một “chế độ đạo tặc” (kleptocracy), nghĩa là một chế độ chính trị tham nhũng, sự tồn tại của chính quyền nhắm vào mục đích làm giàu cho một số thành phần ưu đãi, viên chức chính phủ và bè đảng vây cánh của họ. Kleptocracy phát triển vào cuối thời Cộng Sản Liên Xô và trải qua giai đoạn cầm quyền của Tổng Thống Boris Yeltsin.
.
Người ta thấy Putin đã từng trấn áp một số “đại gia,” nhưng dung dưỡng những “đại gia” khác, tạo thành một phe cánh quyền lực ủng hộ mình. Vladimir Putin, một Tổng Thống có nhiều năng lực, vẫn bị dư luận quốc tế phê phán chỉ trích mạnh mẽ, không phải chỉ vì nguyên lý nhân quyền hay lý tưởng tự do dân chủ, mà vì thực trạng kinh tế xã hội của nước Nga trong một chế độ như vậy.
.
Tổng Thống Putin dành một trọng tâm trong chính sách vào kế hoạch tái xây dựng và tân tiến hóa nền quốc phòng. Tuy nhiên để thi hành được những dự án này, cần tới ngân sách lớn và việc ấy chỉ có thể với kinh tế tài chính ổn định. Các công ty quốc doanh Nga  nợ hơn $500 tỷ trong đó $130 tỷ phải hoàn trả trước cuối năm 2015. Với những biện pháp trừng phạt của Tây Phương, các ngân hàng quốc tế sẽ bị ngăn cản hoặc ngần ngại tham gia vào những doanh vụ với Nga. Khi tình hình kinh tế bất ổn, quan hệ tài chính quốc tế là yếu tố đẩy nhanh tới khủng hoảng.
.
Lần trước, năm 1998, khủng hoảng kinh tế Nga đưa tới tình trạng chính phủ vỡ nợ. Hiện nay, một loạt những tác động bao gồm các vấn đề của ngân hàng, công ty quốc doanh, biện pháp cấm vận, khủng hoảng có thể xẩy ra rất nhanh. Những quốc gia có nhiều quan hệ mậu dịch với Nga như Thụy Điển, Áo và Brazil sẽ chịu ảnh hưởng và tác hại chung tới kinh tế toàn cầu.
.
Các quan sát viên quốc tế nhận định rằng, mặc dầu khủng hoảng có thể không còn xa, nhưng  Tổng Thống Putin là con người rất khôn ngoan, có thể đương đầu với hoàn cảnh ít nhất là trong một thời gian. Tuần trước, ông đã gọi điện thoại cho bà Thủ Tướng Angela Merkel, cảnh báo rằng 300,000 việc làm ở Đức phụ thuộc vào những quan hệ mậu dịch với Nga. Mặc dầu trong Liên Âu, Đức là nước thân cận và có nhiều mối quan hệ với Nga, nhưng bà Merkel giữ vững lập trường và chỉ chấp thuận giải tỏa cấm vận nếu Nga thay đổi chính sách ở Ukraine.
.
Đây là một vấn đề phức tạp đối với ông Putin như đã nói trên, vì bỏ rơi những phần tử người Nga đòi ly khai ở miền Đông Ukraine sẽ không tránh được tác động đến chính trị nội bộ Nga. Mặt khác, đến bây giờ ông Putin cũng không phải là có đủ khả năng chủ động với nền kinh tế Nga mà nhiều khu vực ở trong tay các giới thân cận và ủng hộ ông.
.
Tuy nhiên, Nga hãy còn dự trữ ngoại tệ khoảng $370 tỷ theo số liệu của ngân hàng trung ương. Hơn nữa đồng rouble mất giá khiến cho một số hàng xuất cảng Nga có hiệu lực cạnh tranh hơn trên thị trường. Biện pháp trả đũa của ông Putin là cấm nhập cảng một số sản phẩm Mỹ và Tây Phương cũng giúp Nga tiếp tục duy trì được xuất siêu thương mại.
.
Nhưng quan trọng và có tác dụng định đoạt hơn hết là giá dầu lửa. Ông Putin cho là giá dầu.sẽ hồi phục trở lại, niềm tin tưởng này không bảo đảm vì lượng cunng cấp trên thế giới vẫn tăng do OPEC muốn giữ vững thị phần. Dự đoán của bộ Năng Lượng Mỹ là một thùng dầu thô sẽ chỉ còn $83 năm 2015. Nếu sức tiêu thụ toàn cầu tiếp tục giảm – do kinh tế Trung Quốc không còn tăng trưởng cao và Nhật Bản đi vào suy trầm – thì giá dầu còn xuống nữa và không thể nào ở mức $90 một thùng như Nga cần phải có để tránh khỏi suy thoái và quân bình ngân sách.
.
Một phần quan trọng trong xuất cảng năng lượng của Nga còn là khí đốt mà gần đây Nga đã ký kết thỏa hiệp bán qua Trung Quốc và Nhật Bản; nhưng Trung Quốc là khách hàng không dễ dãi với mọi tình thế biến chuyển ở thị trường.
.
Như thế nếu tình thế vẫn kéo dài như nguyên trạng, khủng hoảng kinh tế ở Nga sẽ không còn xa. Chỉ có điều đáng phải quan tâm là nguy cơ này sẽ đưa đến những tác động ảnh hưởng toàn cầu.

Một cuộc tọa đàm công phu và… quyết liệt


ToadamQCN-(1a)
Ngày 26/11/2014, tại Nhà thờ Thái Hà đã diễn ra một cuộc Tọa đàm với chủ đề: Cơ chế của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người bảo vệ nhân quyền. Cuộc Tọa đàm do Diễn Đàn Xã hội Dân Sự và Nhóm Công tác UPR Việt Nam tổ chức.
Lẽ ra, sẽ chẳng có gì quá lớn lao và nghiêm trọng khi có một cuộc Tọa đàm như vậy. Bởi số lượng người tham gia không lớn lắm và nội dung cũng không có gì quá ghê gớm, ảnh hưởng nghiêm trọng, tức thời đến đời sống xã hội ngay lập tức hoặc có nội dung chống đối, phá phách.
Sở dĩ cuộc Tọa đàm đã trở thành nghiêm trọng, thu hút sự chú ý của dư luận, tập trung đông đảo người theo dõi và diễn ra thành công ngoài sự mong đợi của nhiều người, là do nó đã được lực lượng Công an, an ninh tốn thời gian, công sức và tiền bạc của người dân để nâng cuộc Tọa đàm lên một tầm mức quan trọng.
Cuộc viếng thăm không hẹn trước và những người lạ trước ngõ
Tối 25/11, gia đình Điếu Cày tổ chức liên hoan, tri ân anh chị em miền Bắc đã sát cánh cùng gia đình trong quá trình đấu tranh cho Điếu Cày được ra khỏi nhà tù Cộng sản. Sau khi đi dự về, tôi được người nhà cho biết: Có Cảnh sát khu vực đến tìm gặp. Tôi đi vắng, hỏi có việc gì thì chỉ là “muốn gặp trao đổi’. Mãi về sau mới nói là mai anh có đi dự họp về nhân quyền có Đại sứ các nước tham dự hay không?
ToadamQCN (1)
Buổi sáng, hàng xóm hỏi: Hôm nay có sự kiện gì mà có mấy con chim lợn lại đứng trước ngõ xóm như vậy? Tôi không lạ gì hiện tượng cứ mỗi lần có sự việc gì như biểu tình chống Trung Quốc hoặc phiên tòa xử người yêu nước, thì đầu ngõ cứ xuất hiện những nhân vật đáng ngờ, nhiều khi qua đêm. Bà con xung quanh ngõ và trong xóm không lạ gì kiểu đó. Thậm chí khi một số đứng ám vào hàng rào, bờ tường… người dân ra đuổi, đám này còn xưng xưng: Ông, bà lên Công an mà hỏi, bọn tôi có việc thật chứ không phải ăn cắp. Người dân xua quầy quậy: “Tôi không việc gì phải đi hỏi đâu cả, cứ đứng đây lấm la lấm lét là không được, người đàng hoàng không ai làm thế cả. Đứng ra nơi khác, không được đứng ở chỗ nhà tôi, giờ trộm cắp như rươi”.
Tôi dắt xe hết khúc quẹo ra ngõ, mấy người lạ mặt đã lên xe sẵn (hẳn nhiên là tôi biết đã có tên anten báo cho họ) và bám theo. Bốn chiếc xe máy chở mấy người cứ bám sát tôi cách xa không đến chục mét.
Về chuyện theo dõi, bám theo, tôi không rõ họ làm vậy để làm gì? Chẳng lẽ tiền thuế của dân lại đi phung phí vào những việc vô bổ như vậy mà không ai xót sao? Những việc tôi làm, những người tôi gặp, những nơi tôi đi là công khai, đàng hoàng và hoàn toàn không vi phạm pháp luật. Vậy thì việc rình rập, theo dõi, bám theo… nhằm mục đích gì? Chuyện về việc theo dõi, bám đuôi, rình rập… chắc sẽ phải kể trong một dịp khác. Ở đây chỉ nói về những gì xảy ra ngày hôm nay, không chỉ có tôi, Ts Nguyễn Quang A, một diễn giả trong cuộc tọa đàm cũng đã bị vây ngay từ khi ra khỏi nhà riêng lúc 5h sáng.
Đường Hà Nội buổi sáng đông đúc nhộn nhịp, tôi chạy trước, bốn người bám sát và tôi dẫn họ đi đến nơi cần đến sáng nay: Nhà thờ Thái Hà, nơi tôi được mời đến dự Tọa đàm ” Cơ chế của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người bảo vệ nhân quyền”.
Quyết liệt ngăn chặn
Đến nhà thờ. Điều đầu tiên đập vào mắt, là chiếc xe Công an Phường đã đứng ngay trước cổng. Không như mọi hôm, hôm nay hàng quán xung quanh đường vào nhà thờ bị dẹp sạch, chỉ để lại vài quán nước có ghế con cho những người lạ mới đến ngồi. Họ là những người như bốn người đã bám theo tôi từ nhà đến đây. Có thể nói, nếu ai chưa chứng kiến tận mắt, sẽ không nhờ nhà cầm quyền đã huy động một lượng An ninh đông đảo như vậy để “hóa trang” cho những mục đích của mình. Trước cửa nhà thờ Thái Hà khi đó như một cái chợ.
Không chỉ thế, trên nóc của nhà Tu Viện Thái Hà mà nhà cầm quyền đã “mượn” làm bệnh viện nhưng không trả, một số các chiến sĩ đang dùng các phương tiện quay phim, ghi hình, chụp ảnh từ xa. Tình cảnh cứ như một cuộc chiến.
Trong sân nhà thờ, một số giáo dân tập trung ở sân với tinh thần chờ đợi tiếp khách. Nghe nói tối qua, khi đã muộn, công an, dân phòng còn vào để “kiểm tra hộ khẩu” và giáo dân đã phải kéo chuông báo động.
Lần lượt những người được mời cũng tập trung đầy đủ và lên Hội trường, nơi sẽ tổ chức buổi Tọa đàm hôm nay. Đó là các hội đoàn dân sự được mời tham dự buổi Tọa đàm hôm nay. Các nhân viên tòa Đại sứ các nước Anh, Mỹ, Ireland, Đức… và Cộng Đồng Châu Âu. lần lượt đến nơi, mặc dù một số vị đi xe hơi bị chặn ngay từ đầu ngõ phải đi bộ vào.
Tôi bước vào Hội trường thì nhận được tin từ Ts Nguyễn Quang A, ông đang phải đi bộ đến Thái Hà, ông đang ở quán Cafe trên đường Lý Nam Đế và được vây dày đặc bởi lực lượng an ninh theo ông từ cửa. Một số giáo dân nghe tin vậy xung phong đi đón ông. Nhưng, khi họ đến thì ông đã tiếp tục cuộc hành trình bằng đôi chân của mình về phía Thái Hà nên không gặp được.
Vượt một quãng đường hơn 15km với một người có tuổi là một thử thách lớn, nhưng khi ông đến ô Chợ Dừa, thì toán An ninh đã chặn ông lại không cho đi tiếp. Thông tin được báo một số giáo dân báo về và họ cùng với một số anh em lên đường ứng cứu. Cho đến khi ông có mặt ở 180, Nguyễn Lương Bằng thì hàng rào an ninh, công an, dân phòng khép chặt ông lại.
Nhận được tin đó, một số nhân viên sứ quán Mỹ, Anh, Ireland… đã đứng bật dậy, tay cầm máy ảnh và bước ra khỏi Hội trường. Họ bước ra với vẻ mặt bất mãn ghê gớm. Và họ đi ra để giải vây cho Ts Nguyễn Quang A. Riêng tôi, khi nhìn ba người phụ nữ nước ngoài, với những bước chân mạnh mẽ, kiên quyết đi giải vây cho một người Việt Nam, đang bị chính người Việt Nam vây hãm bất chấp pháp luật trên đất nước Việt Nam thì cảm giác đau xót, xấu hổ và nhục nhã không thể nào tả nổi bằng lời.
Những người bạn đã đến kịp thời khi đám đông đã xô đẩy và vây chặt Ts Nguyễn Quang A. Ông đã được giải thoát và đi vào Hội trường trong tiếng vỗ tay của mọi người.
ToadamQCN (5)

Có lẽ, với những tiếng vỗ tay, những ánh mắt và hành động của những nhân viên Sứ quán các nước hôm nay, thì có thể nói rằng: Không ai có đủ khả năng làm nhục quốc thể, hạ nhục đất nước Việt Nam và kéo thấp vị thế của đất nước trước con mắt người nước ngoài như các cán bộ, nhân viên an ninh, công an hôm nay.
Tọa đàm
Đúng giờ, buổi Tọa đàm vẫn diễn ra, dù cả khi Ts Nguyễn Quang A đang trên đường đi và người ta đã tiên liệu rằng ông có thể không đến được. Điều mà những người ngăn chặn đã không tính đến ở đây, là tinh thần vì Công lý, Sự thật và Chính nghĩa mới là yếu tố chính của buổi Tọa đàm. Những ý nghĩa đó không hoàn toàn phụ thuộc ai là diễn giả.
Nội dung buổi Tọa đàm đã bám sát các vấn đề mà chủ đề cuộc Tọa đàm đã đề cập: ” Cơ chế của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người bảo vệ nhân quyền”. Nhiều định nghĩa được giải thích, nhiều câu hỏi được giải đáp, nhiều văn bản, nghị quyết và Tuyên ngôn nhân quyền dã được đề cập để nêu rõ và làm nổi bật những điều cần thiết cho mọi công dân được hiểu biết về vấn đề bảo vệ người bảo vệ nhân quyền trong mọi điều kiện xã hội, nhất là xã hội Việt Nam.
Đặc biệt, Tọa đàm còn nêu rõ các khuyến nghị của Cộng đồng Quốc tế với VN trong kỳ kiểm điểm định kỳ phổ quát mà Việt Nam đã chấp nhận là những gì…
ToadamQCN (8)

Nhiều người, dù đã có nhiều năm quan tâm, tham gia các hoạt động bảo vệ Quyền Con người. Nhưng có lẽ đến Tọa đàm này họ mới hiểu rõ hơn về những khái niệm căn bản, những điều khoản luật pháp cũng như các định chế quốc tế cho vấn đề này. Đặc biệt là những thủ đoạn, những lời lẽ buộc tội, tuyên truyền dọa dẫm vô căn cứ của báo chí và cơ quan công quyền đối với những người bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam được giải thích rõ ràng đúng, sai và cách làm thế nào khi bị gán ghép những tội trạng đó…
Sau phần trình bày của diễn giả, là những câu hỏi, những cuộc thảo luận xoay quanh chủ đề làm thế nào để bảo vệ Quyền Con người và bảo vệ người bảo vệ quyền con người. Các câu hỏi nêu những trường hợp cụ thể, các khả năng có thể xảy ra đối với những người đã và đang có các hoạt động bảo vệ quyền con người.
Tất cả những vấn đề được nêu ra, hết sức cần thiết cho bất cứ một người dân, một nhà nước và một xã hội nào muốn tiến bộ.
Ngăn chặn bằng được: Nghịch lý?
Cần phải khẳng định rằng: Quyền Con người là một quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng. Do vậy Tạo hóa đã sinh ra con người bình đẳng với nhau không phân biệt bất cứ xuất thân, thành phần, chủng tộc, màu da, tín ngưỡng… Vì thế, bất cứ một thể chế chính trị nào, muốn tồn tại đều phải có mục đích là phục vụ người dân mà trước hết bảo đảm cho người dân được những quyền căn bản nhất: Quyền Con người và sự bình đẳng của con người trong các quyền đó.
Chỉ có các chế độ phát xít, độc tài và diệt chủng hoặc phân biệt chủng tộc mới không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đển Quyền con người của công dân.
Khi mà một bộ phận trong một chế độ tự cho mình có đặc quyền, đặc lợi hơn những bộ phận khác trong xã hội, thì chúng không quan tâm đến Quyền con người của các bộ phận khác trong xã hội. Đó là chế độ độc tài.
Khi một thể chế chỉ coi dân tộc, giai cấp mình là đẳng cấp cao hơn các dân tộc, các giai cấp khác, không quan tâm đến sự bình đẳng giữa các dân tộc, thì đó là chế độ phát xít.
Việt Nam, một đất nước mà ngay từ 1945 đã khẳng định tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng trong Tuyên ngôn Độc lập[1] . Lại có một nhà nước “của dân, do dân và vì dân’ thì việc bảo vệ quyền con người và những người bảo vệ quyền con người lại càng phải được tôn trọng mới hợp lý.
Gần đây, Việt Nam vừa được bầu vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, vậy việc phố biến kiến thức về bảo vệ nhân quyền và bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền, các định chế quốc tế và trong nước về vấn đề nhân quyền… lẽ ra là việc của nhà nước.
Vì thế, khi công an, an ninh Việt Nam ngăn chặn việc Tọa đàm hôm nay đã tạo ra những điều như là nghịch lý ?
Tuy nhiên, chúng ta đều biết một nguyên lý cơ bản: Chống lại ánh sáng, chỉ có bóng tối.
Khi anh chống lại sự thật, thì anh đang đứng về phía dối trá.
Khi anh chống lại xu thế của xã hội dân chủ, thì anh đang đứng về phía độc tài.
Khi anh chống lại quyền con người, thì anh đứng về phía bất nhân.
Và sự quyết liệt của nhà cầm quyền khi ngăn chặn cuộc Tọa đàm hữu ích và cần thiết này, đã chứng minh họ đang đứng ở đâu trong xã hội loài người.
Hà Nội, ngày 30/11/2014
Blog J.B Nguyễn Hữu Vinh (RFA)
—————————————————
[1] Tuyên ngôn Độc lập 1945 – Hồ Chí Minh – đọc như sau: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đằng”. Theo tôi có thể là sự nhầm lẫn khi đọc hoặc do trình độ về ngữ pháp. Bởi thực tế thì không phải “tất cả mọi người đều sinh ra” vì có rất nhiều người không được sinh ra.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, chưa có ai phân tích rõ điều này là lỗi chính tả, ngữ pháp hay câu nói. Nên vẫn tạm hiểu theo nghĩa “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Ở đây cũng tạm dùng theo nghĩa đó.

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Giáo hoàng mang thông điệp hòa giải đến Thổ Nhĩ Kỳ

Giáo hoàng mang thông điệp hòa giải đến Thổ Nhĩ Kỳ

mediaĐức Giáo hoàng Phanxicô đến cầu nguyện tại Đền thờ Xanh Hồi giáo và thăm giáo đường Thánh Sophie - REUTERS /Stoyan Nenov
    Đức Giáo hoàng Phanxicô sang nay rời Ankara đến Istanbul, nơi Ngài gặp gỡ Giáo chủ Chính thống giáo Bartholomée Đệ nhất. Cũng như người tiền nhiệm Benedicto 16, Đức Giáo hoàng Phanxicô đến cầu nguyện tại Đền thờ Xanh Hồi giáo.
    Đây là dấu hiệu mới chứng tỏ ý hướng xúc tiến hòa giải tôn giáo, trong một đất nước Hồi giáo thân cận với Irak và Syria đang bị chiến tranh tàn phá. Từ Istanbul, đặc phái viên của RFI Geneviève Delrue gởi về bài tường trình :
    Vùng Cận Đông còn phải chịu đựng sự thiếu vắng hòa bình đến bao lâu nữa ? Với sự giúp đỡ của Thượng đế, chúng ta phải lặp lại sự can đảm cho hòa bình ». Đó là lời cổ vũ của Đức Giáo hoàng Phanxicô được đưa ra ngay sau khi Ngài đặt chân đến một đất nước đã đón tiếp gần hai triệu người tị nạn.
    Trong khi kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo hoàng cũng khuyến khích chính quyền nước này gây ảnh hưởng tích cực, bằng sự lựa chọn và gương mẫu của mình, ngõ hầu hòa bình quay lại với khu vực.
    Cũng với tinh thần đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô trong một bài nói chuyện dài đã đề cao sự cởi mở về tín ngưỡng, đưa quan hệ giữa các tôn giáo đi vào chiều sâu, và đòi hỏi tất cả các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo cần phải có cùng quyền lợi và nghĩa vụ.
    Đây cũng là yêu cầu quan trọng của thiểu số người Thiên Chúa giáo phương Đông, mà trước hết là tại Thổ Nhĩ Kỳ. Bài diễn văn kêu gọi một cuộc đối thoại liên tôn giáo, chấp nhận những khác biệt một cách thanh thản, kêu gọi thoát khỏi sự sợ hãi – nguồn cơn của mọi các ác.
    Sau đó Đức Giáo hoàng Phanxicô không sử dụng chiếc xe hơi Đức bọc thép sang trọng do chính quyền Ankara dành cho, mà dùng một chiếc xe hơi bình thường của Pháp, đê đến thăm giáo đường Thánh Sophie. Giáo đường nổi tiếng này bị chuyển thành đền thờ Hồi giáo năm 1453 rồi trở thành bảo tàng năm 1934, và sau 15 thế kỷ vẫn tiếp tục gây căng thẳng vì người Hồi giáo muốn chuyển trở thành đền thờ.
    Buổi chiều, Đức Giáo hoàng làm lễ tại giáo đường Đức Chúa Thánh Thần cho thiểu số gần 80.000 người Thiên Chúa giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, một cộng đồng bị chìm lấp trong 75 triệu người Hồi giáo tại đất nước này. Từ khi lên nắm quyền, Thủ tướng Erdogan, một người Hồi giáo sùng đạo điều hành Thổ Nhĩ Kỳ một cách độc đoán, luôn tuyên bố là người bảo vệ các tôn giáo, nhưng lại bị tố cáo là muốn « Hồi giáo hóa » nhà nước thế tục thành lập năm 1923.

    Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

    Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ




    VATICAN. Sáng ngày 28-11-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ trong 3 ngày, cho đến chiều chúa nhật 30-11 tới đây.

    Cơ hội chính trong cuộc viếng thăm của ngài lễ kính thánh Anrê Tông Đồ, bổn mạng của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, là Giáo Hội đứng đầu trong số 15 Giáo Hội Chính Thống trên thế giới.

    ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Vị đầu tiên là Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6, đến thăm nước này cách đây 47 năm, tức là trong hai ngày 25 và 26 tháng 7 năm 1967.

    Vài nét về Thổ Nhĩ kỳ
    Thổ nhĩ kỳ có diện tích rộng gấp đôi Việt Nam, với gần 780 ngàn cây số vuông, và hiện có 76 triệu dân cư, trong đó 98% là tín hữu Hồi giáo gồm 68% là người Sunnit và 30% là người Shiite. Giáo Hội Công Giáo chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ với 53 ngàn người, tương đương với 0,07% thuộc 7 giáo phận với 54 giáo xứ và 13 trung tâm mục vụ khác. Nhân sự mục vụ của Công Giáo tại đây chỉ có 6 GM phụ trách 3 hạt đại diện tông tòa theo lễ nghi la tinh, với sự cộng tác của 58 LM, trong số này chỉ có 6 LM giáo phận, phần còn lại 52 vị thuộc các dòng tu. Cả nước chỉ có 7 tu huynh và 54 nữ tu, 4 chủng sinh.

    Cách đây 8 năm khi ĐGH Biển Đức 16 thăm Thổ nhĩ kỳ, số LM giáo phận tại đây là 13 vị, như vậy, có nghĩa là số LM tại đây trong thời gian qua bị giảm mất quá một nửa!

    Theo Hiệp ước hòa bình ký ở Lausanne Thụy Sĩ hồi năm 1923, các tôn giáo thiểu số tại Thổ Nhĩ Kỳ được bình đẳng về quyền lợi như các công dân Hồi giáo khác và được hưởng các quyền tự do lương tâm, tín ngưỡng và tư tưởng, như hiến pháp quốc gia qui định. Nhưng trong thực tế, Kitô hữu vẫn còn bị kỳ thị về nhiều mặt, Giáo Hội Công Giáo vẫn không được công nhận về mặt pháp lý, và người dân Thổ nhĩ kỳ vẫn coi Kitô giáo là đạo từ nước ngoài.

    Viếng thăm lăng Ataturk

    Ngày đầu tiên trong cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thổ Nhĩ kỳ được dành cho các nghi thức ngoại giao: viếng thăm lăng nhà lập quốc Thổ, thăm Tổng thống và chính quyền, gặp Phân bộ tôn giáo vụ.

    ĐTC đã tới phi trường Ankara lúc 1 giờ trưa sau 3 giờ bay từ Roma. Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được một vị Bộ trưởng đại diện chính quyền cùng với giáo quyền địa phương tiếp đón. Liền đó ngài đến viếng lăng của Mustafa Kemal Ataturk cách đó 45 cây số. Ông là nhà sáng lập và là tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ kỳ từ năm 1923 đến 1938, và thường được gọi là ”Người cha già của dân tộc Thổ nhĩ kỳ”. Với chế độ Cộng hòa, Thổ Nhĩ Kỳ vĩnh biệt chế độ Vương quốc Ottoman trước kia, Hồi giáo không còn được coi là quốc giáo, Nhà Nước Thổ giữ vị thế ”đời”, trung lập đối với tôn giáo, bãi bỏ chế độ Vua Hồi giáo, thay luật Coran bằng dân luật, bỏ mẫu tự Arập và thay bằng mẫu tự la tinh.

    Tại lăng Ataturk, ĐTC và đoàn tùy tùng đã được vị Chỉ Huy Trưởng binh đoàn canh giữ đón tiếp và ngài đã đặt vòng hoa màu trắng và đỏ trước mộ bằng cẩm thạch của nhà lập quốc Thổ, trước khi tiến sang sảnh đường ở nhà bên cạnh để ký tên vào sổ vàng.

    Ngài viết trong sổ này: ”Tôi chân thành cầu chúc cho Thổ Nhĩ kỳ, chiếc cầu thiên nhiên nối liền giữa hai Đại Lục, không những là ngã tư đường, nhưng còn là nơi gặp gỡ, đối thoại và sống chung thanh thản giữa những con người nam nữ thiện chí thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc và tôn giáo”.

    Gặp tổng thống

    Rời lăng vị lập quốc, ĐTC đã tới phủ tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ cách đó 8 cây số, nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

    Dinh tổng thống này mới được khánh thành cách đây 2 năm, quen gọi là Dinh Thự trắng, thay thế phủ tổng thống cũ. Dinh mới này có 1 ngàn căn phòng, và có một Đền thờ Hồi giáo có thể chứa được 5 ngàn tín hữu.
    Có nhiều người phê bình việc xây phủ Tổng thống nguy nga như vậy, trên một diện tích hơn 300 ngàn mét vuông, hơn cả Tòa Bạch Cung của Mỹ, điệm Kremli của Nga hoặc điện Buckingham của Anh quốc. Chi phí xây tòa nhà này lên tới 350 triệu Euro. Có những người xin ĐGH đừng đến đó, nhưng Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết lời yêu cầu này không để nhận được theo nghi thức ngoại giao quốc tế: vị quốc khách phải chấp nhận nơi mình được tiếp đón.

    Tại Phủ tổng thống lúc quá 2 giờ rưỡi chiều hôm qua, giờ địa phương, đã diễn ra nghi thúc đón tiếp chính thức, với các kỵ, đoàn quân danh dự và quốc ca, và sự giới thiệu hai phái đoàn. Tổng thống Recep Tayyip Erdogan năm nay 60 tuổi, đón tiếp ĐTC tại cổng vào dinh. Ông nguyên là thị trưởng thành Istanbul rồi làm thủ tướng trong 11 năm trời, trước khi được bầu tổng thống ngày 28-8 năm nay.

    ĐTC và tổng thống đã giới thiệu hai phái đoàn liên hệ, trước khi hội kiến riêng trong dinh, rồi tiến ra sảnh đường trước sự hiện diện của đông đảo các giới chức chính quyền Thổ Nhĩ kỳ và ngoại giao đoàn.

    Diễn văn ca ĐTC

    Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng Thống Erdogan, ĐTC nhắc đến vẻ đẹp, lịch sử phong phú, đầy những vết tích văn minh, và là chiếc cầu tự nhiên nối liền hai đại lục Âu Á, cũng như là phần đất quí giá đối với lịch sử Kitô giáo, ĐTC đề cao sức sinh động, sự cần cù và quảng đại của dân tộc Thổ Nhĩ kỳ hiện nay. Ngài cũng nói rằng:
    ”Thật là một lý do vui mừng đối với tôi được cơ hội tiếp tục với quí vị một cuộc đối thoại thân hữu, quí chuộng và tôn trọng, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi, chân phước Phaolô 6, thánh Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, cuộc đối thoại đã được chuẩn bị và tạo điều kiện thuận lợi nhờ hoạt động của vị Khâm Sứ Tòa Thánh bấy giờ là ĐGM Angelo Giuseppe Roncalli, nay là thánh Gioan 23, và nhờ Công đồng chung Vatican 2.

    Chúng ta cần một cuộc đối thoại đào sâu sự hiểu biết và với sự phân định, đề cao giá trị của bao nhiêu điều chúng ta có chung với nhau, và đồng thời giúp chúng ta cứu xét những khác biệt, với tâm hồn khôn ngoan và thanh thản, để có thể rút ra những bài học từ đó.

    Cần kiên nhẫn tiếp tục thi hành quyết tâm kiến tạo một nền hòa bình vững chắc, dựa trên sự tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản gắn liền với phẩm giá con người. Nhờ con đường này, chúng ta có thể vượt thắng những thành kiến và những sợ hãi sai trái, và thay vào đó dành chỗ cho sự quý chuộng, gặp gỡ, phát triển những nghị lực tốt đẹp nhất để mưu ích cho mọi người.

    Để đạt mục tiêu ấy, điều cơ bản là các công dân Hồi giáo, Do thái và Kitô giáo, - trong các qui định của luật pháp cũng như trong thực thực thi các luật ấy - được hưởng cùng những quyền và tôn trọng cùng nghĩa vụ. Như thế, họ sẽ dễ dàng nhận ra mình là anh chị em và là những người đồng hành, ngày càng tránh được những hiểu lầm và tạo điều kiện cho sự cộng tác và cảm thông. Tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, nếu được bảo đảm thực sự cho tất cả mọi người, thì sẽ kích thích sự triển nở tình thân hữu, trở thành một dấu chỉ hùng hồn về hòa bình.
    ĐTC nói thêm rằng: ”Trung Đông, Âu Châu, thế giới đang chờ đợi sự triển nở ấy. Đặc biệt Trung Đông, từ quá lâu rồi là nơi diễn ra các cuộc chiến tranh

    huynh đệ tương tàn, dường như chiến tranh này sinh ra chiến tranh khác, như thể câu trả lời duy nhất cho chiến tranh và bạo lực luôn luôn phải là một cuộc chiến tranh mới và bạo lực mới.

    ĐTC đặt câu hỏi:
    ”Trung Đông còn phải chịu đau khổ đến bao giờ nữa vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu sự tiếp tục các cuộc xung đột như thể không thể có một sự cải tiến nào cho tình thế! Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta có thể và luôn luôn phải canh tân lòng can đảm hòa bình! Thái độ này dẫn đến việc chân thành, kiên nhẫn và quyết liệt sử dụng mọi phương thế thương thuyết, và nhờ đó đạt tới những mục tiêu cụ thể hòa bình và phát triển lâu dài.

    ”Thưa Tổng Thống, để đạt tới mục tiêu cao cả và cấp thiết ấy, một đóng góp quan trọng có thể đến từ đối thoại liên tôn và liên văn hóa, để loại trừ mọi hình thức cực đoan và khủng bố, nó gây thương tổn trầm trọng cho phẩm giá của mỗi người và lạm dụng tôn giáo.

    Cần chống lại trào lưu cuồng tín và cực đoan, những sự sợ hãi vô lý kích thích sự hiểu lầm và kỳ thị, bằng cách thực thi tình liên đới của tất cả những người có tín ngưỡng, với những cột trụ là tôn trọng sự sống con người, tự do tôn giáo, là tự do phụng tự và tự do sống theo luân lý đạo đức tôn giáo, cố gắng bảo đảm cho tất cả mọi người những gì cần thiết để sống xứng đáng, và chăm sóc môi trường thiên nhiên. Các dân tộc và quốc gia ở Trung Đông đang cấp thiết cần điều này để có thể lượt ngược xu thế, và thi hành hữu hiệu một tiến trình bình định, nhờ sự loại bỏ chiến tranh và bạo lực, và theo đuổi đối thoại, công pháp và công lý.

    Thực vậy, cho đến nay, rất tiếc là chúng ta còn chứng kiến những cuộc xung đột trầm trọng. Đặc biệt tại Siria và Irak, bạo lực khủng bố không có dấu hiệu suy giảm. Người ta ghi nhận có sự vi phạm các luật lệ cơ bản nhất về nhân đạo đối với các tù nhân và toàn bộ các nhóm chủng tộc; chúng ta đã và còn thấy những cuộc bách hại nặng nề chống lại các nhóm thiểu số, đặc biệt là những người Kitô và Yézidi, và không phải chỉ có họ mà thôi: hàng trăm ngàn người buộc lòng phải rời bỏ gia cư và quê hương của họ để thoát thân và trung thành với tín ngưỡng của mình.

    Thổ Nhĩ Kỳ, khi quảng đại đón nhận một số lớn người tị nạn, đang trực tiếp chịu hậu quả của tình trạng bi thảm này ở vùng biên giới của mình, và cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ luân lý phải trợ giúp Thổ Nhĩ Kỳ trong việc săn sóc những người tị nạn. Cùng với sự trợ giúp nhân đạo cần thiết, ta không thể dửng dưng trước những gì gây nên những thảm trạng ấy. Trong khi tái khẳng định sự hợp pháp ngăn chặn kẻ gây hấn bất chính, tôi cũng muốn nhắc nhớ rằng không thể ủy thác việc giải quyết vấn đề bằng giải pháp quân sự mà thôi.

    Cần có sự dấn thân chung mạnh mẽ, dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau, là cho hòa bình được lâu bền và sau cùng giúp dành những tài nguyên không phải cho việc võ trang, nhưng cho những cuộc chiến thực sự xứng đáng với con người: cuộc chiến chống nghèo đói và bệnh tật, để phát triển dài hạn và bảo tồn thiên nhiên, cứu giúp bao nhiêu hình thức nghèo đói và bị loại bỏ vẫn còn trong thế giới tân tiến ngày nay.

    Do lịch sử của mình và do vị trí địa lý, cũng như vì tầm quan trọng trong miền này, Thổ Nhĩ Kỳ có một trách nhiệm lớn: những chọn lựa và gương của nước này có một giá trị đặc biệt và có thể là trợ lực lớn để tạo điều kiện cho một gặp gỡ giữa các nền văn minh và tìm ra những con đường hòa bình và tiến bộ có thể thực hiện được.
    Xin Đấng Tối Cao chúc lành và bảo vệ Thổ Nhĩ kỳ và giúp đất nước này là người xây dựng hòa bình hữu hiệu và đầy xác tín!

    Gặp chủ tịch cơ quan lãnh đạo Hồi giáo

    Sau bài diễn văn, ĐTC còn gặp thủ tướng Ahmet Davutoglu cũng tại Phủ tổng thống, rồi ngài đến trụ sở của phân bộ tôn giáo vụ gọi là Diyanet cách đó 10 cây số để hội kiến với giáo sư Mehmet Gormez chủ tịch của cơ quan này. Đây là thẩm quyền cao nhất của Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ và do chính phủ bổ nhiệm. Phân bộ tôn giáo vụ có quyền tài phán trên tất cả các Hội đường Hồi giáo trên toàn quốc và giám sát để việc giải thích kinh Coran được phù hợp với đường hướng của Nhà Nước.

    Mặc dù Thổ nhĩ kỳ có đại đa số dân là tín hữu Hồi giáo, nhưng Hồi giáo không còn là quốc giáo kể từ năm 1923.
    Tại trụ sở Phân bộ Tôn giáo vụ, ĐTC đã được giáo sư Gormez cùng với hai đại Mufti của cộng đoàn hồi giáo ở thủ đô Ankara và thành Istanbul đón tiếp và hội kiến cùng với các Hồng y thuộc đoàn tùy tùng và giới báo chí quốc tế.
    Giáo Sư Gormez năm nay 55 tuổi (1959), tốt nghiệp Hồi giáo học tại Đại học Ankara và giảng dạy tại đại học Hacettep trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ này cách đây 4 năm. Từ khi giữ chức vụ này, nhiều lần ông lên tiếng tố giác trào lưu ghét bỏ Hồi giáo tại các nước tây phương, cả những vụ tấn công các Đền thờ Hồi giáo, như thường xảy ra ở Cộng hòa Liên bang Đức, nơi có hơn 4 triệu người gốc Thổ nhĩ kỳ sinh sống. Hồi tháng 9 năm nay, ông đã lên tiếng cho rằng ĐGH chưa làm đủ để bênh vực Hồi giáo trước làn sóng ghét bỏ và giải thích sai lầm về Hồi giáo.

    Sau khi hội kiến, ĐTC và ông Chủ tịch Gormez đã tiến sang sảnh đường trước sự hiện diện của giới báo chí quốc tế.

    Diễn văn ca ĐTC

    Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Gormez, ĐTC nhắc đến những quan hệ tốt đẹp và cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và ngài gọi đây là một sứ điệp rõ ràng gửi đến các cộng đồng liên hệ, nói lên rằng sự tôn trọng lẫn nhau và tình thân hữu là điều có thể, mặc dù có những khác biệt. Đó là sứ điệp có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng trong thời đại khủng hoảng như ngày nay, tại một số vùng trên thế giới cuộc khủng hoảng ấy trở thành những thảm trạng thực sự cho toàn thể dân chúng. Chiến tranh, những căng thẳng và xung đột giữa các chủng tộc và tôn giáo; đói nghèo đang đè nặng trên hằng triệu người; chúng tạo nên những thiệt hại cho môi trường thiên nhiên, cho không khí, nước, và đất. Tình trạng tại Trung Đông thực là bi thảm, nhất là tại Irak và Siria. Vì một nhóm cực đoan và duy căn, toàn bộ các cộng đoàn, nhất là các tín hữu Kitô và người Yézidi, và không phải chỉ họ mà thôi, đã phải bỏ mọi sự để thoát thân và khỏi chối bỏ đức tin. Bạo lực cũng giáng xuống trên các nơi thánh, các đền đài, các biểu tượng tôn giáo và gia sản văn hóa, hầu như muốn xóa bỏ mọi vết tích, mọi ký ức của người khác.
    ĐTC nhận xét rằng trong tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta có nghĩa vụ tố giác mọi vi phạm phẩm giá và các quyền con người. Sự sống con người, là hồng ân của Thiên Chúa Tạo Hóa, có tính chất thánh thiêng. Bạo lực dùng tôn giáo để biện minh cho hành động của mình là điều đáng bị lên án quyết liệt, vì Đấng Toàn Năng là Thiên Chúa của sự sống và hòa bình. Thế giới đang chờ đợi nơi tất cả những người tôn thờ Chúa, mong họ trở thành những người hòa bình, có khả năng sống với nhau như anh chị em, mặc dù có những khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa hoặc ý thức hệ.

    Cần làm việc chung để tìm ra những giải pháp thích hợp. Điều này đòi có sự cộng tác của tất cả mọi phía: chính quyền, các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các đại diện của xã hội dân sự, và mọi người nam nữ thiện chí. Đặc biệt các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo. Là tín hữu Hồi giáo và Kitô giáo, chúng ta mang theo những kho tàng tinh thần vô giá, trong đó chúng ta nhận ra những yếu tố chung, tuy được sống theo những truyền thống riêng: đó là sự tôn thờ Thiên Chúa từ bi, sự tham chiếu tổ phụ Abraham, việc cầu nguyện, làm phúc, chay tịnh - đó là những yếu tố nếu được sống chân thành, thì có thể biến đổi cuộc sống và mang lại một nền tảng vững chắc cho phẩm giá và tình huynh đệ của con người.

    Sự kiện cùng nhau nhìn nhận tính chất thánh thiêng của nhân vị cũng hỗ trợ sự cảm thông chung, tình liên đới và sự trợ giúp thực sự dành cho những người đau khổ.

    Sau cùng, ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng đối với những gì dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ, dù là người Hồi giáo hay Kitô giáo, đang làm cho hàng trăm ngàn người tị nạn rời bỏ quê hương họ vì chiến tranh. Ngài cũng bày tỏ hài lòng vì những quan hệ tốt đẹp và sự cộng tác giữa Phân bộ Tôn giáo Diyanet và Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, như một dấu chỉ sự đối thoại chân thành để mưu ích cho tất cả mọi người, là dấu chỉ hy vọng cho một thế giới đang rất cần hòa bình, an ninh và thịnh vượng.

    G. Trần Đức Anh OP

    Hỏa Bốc Lên Đầu Khi Dầu Sụt Giá


    Khi dầu tăng giá, chiến tranh dễ tàn phá. Ngược lại cũng thế, hãy hỏi Gorbachev!

    Khi dân Mỹ đang nhồi thịt gà cho bữa tiệc Tạ Ơn vào buổi tối thì mặt trời thức giấc sớm hơn ở bên kia bán cầu: tổ chức OPEC của các nước xuất cảng dầu thô vừa kết thúc hội nghị tại Vienna trong cùng ngày Thứ Năm – với tiếng thở dài. Không thể giảm số cung để giữ giá được. Tin loan ra là giá dầu lại sụt trên các thị trường, lần đầu tiên tụt đáy bảy chục một thùng kể từ ba năm nay.

    Và sẽ còn tụt nữa trong nhiều năm tới.

    Cùng với tin đó về hội nghị của OPEC, người ta biết thêm rằng ông trùm Igor Sechin, một thủ lãnh có ảnh hưởng trong đám cận thần của Tổng thống Vladimir Putin, đã thất bại trong chuyến du thuyết trước khi có hội nghị OPEC. Là Tổng quản trị của tập đoàn năng lượng quốc doanh Rosnef, Sechin đi vận động các thành viên OPEC cùng nhau tiết giảm số cung để nâng giá dầu mà chuyện không thành. Buồn ơi chào mi.

    Hãy nói về nguyên do sụt giá đã.

    Đầu tiên là chuyện cung cầu. Số dầu cung cấp trên thế giới hiện cao hơn số cầu đến triệu thùng một ngày. Nói về dầu thô, người ta dùng khái niệm "nhật lượng" là sản lượng trong một ngày. Số tiêu thụ của toàn cầu hiện ở mức 92 triệu thùng mà nhật lượng của các nước sản xuất lại cao hơn một triệu thùng, và giá dầu lại có mức đàn hồi (co giãn) rất cao nên giá sụt mạnh hơn sự chênh lệch cung cầu.

    Cũng về mặt cung, nhật lượng của Mỹ là gần chín triệu thùng (tính đến cuối Tháng 10) nhờ cuộc cách mạng kỹ thuật mới, là gạn đá phiến ra dầu (shale-oil). Ngoài ra, dù Libya có loạn cũng đã bơm thêm dầu, từ 200 ngàn thùng nay đã 900 ngàn. Xứ Iraq chưa êm thì cũng ráo riết bơm dầu để đạt nhật lượng kỷ lục là ba triệu 300 ngàn thùng. Cả thế giới cứ nói đến nguy cơ khủng hoảng vì tổ chức khủng bố ISIL tại Syria và Iraq, nhưng quân khủng bố cũng cần bơm dầu để bán.

    Trong khi đó, số cầu trên thế giới lại giảm. Từ nhiều năm rồi, các nền kinh tế Bắc Mỹ đều đã cải tiến hiệu suất - là tiêu thụ ít hơn cho cùng một sản lượng. Mà kinh tế Trung Quốc và Âu Châu lại có dấu hiệu trì trệ. Lần thứ ba trong năm nay, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đánh sụt dự báo tăng trưởng toàn cầu, và qua năm tới thì tình hình chưa mấy khả quan.

    Người ta có thể nghĩ rằng yếu tố cung cầu ấy chỉ có tính cách ngắn hạn và giá dầu lại vượt trần là trăm đô la một thùng sau khi sụt mất ba chục bạc. Trên lý thuyết, khi giá dầu hạ là người tiêu thụ tiết kiệm được tiền và xài vào việc khác nên sẽ kích thích kinh tế và làm tăng số cầu. Và cũng trên lý thuyết thì khi giá hạ, các doang nghiệp sản xuất bị mất lời nên sẽ điều chỉnh sản lượng và làm giảm số cung. Nhưng đấy là lý thuyết.

    Về thực tế, số cầu tại Bắc Mỹ tiếp tục giảm và sẽ giảm nữa nhờ hiệu suất tiêu thụ và các loại năng lượng điền thế. Kinh tế Âu Châu chưa ra khỏi suy trầm mà cũng có chiều hướng cải tiến hiệu suất tiêu thụ. Còn Trung Quốc thì sẽ đi vào chu kỳ suy thoái, có khi còn bị khủng hoảng.

    Trong lúc đó, các nước dầu hỏa Trung Đông như Libya, Iraq hay Iran đều cần tiền và ra sức bơm dầu. Riêng có Saudi Arabia thì đã trường vốn, có tiền, lại mưu toan giữ giá dầu thật thấp để chi phối sản lượng của các doanh nghiệp Mỹ đã tốn tiền đầu tư vào kỹ thuật đá phiến.

    Vì vậy mà cung vẫn cao hơn cầu trong nhiều năm tới và giá dầu khó trở lại trăm bạc một thùng. Lại còn có thể sụt dưới mức sáu chục là ít.

    Khi một sản phẩm sụt giá thì xứ nào tiêu thụ sẽ có lời và các nước sản xuất sẽ lỗ. Kinh tế học gọi đó là "tái phân lợi tức", từ người bán sang người mua. Nhưng dầu thô là sản phẩm có tính chất chiến lược cho nên ảnh hưởng về giá cả cũng có kích thước chính trị.

    Trước hết, các quốc gia chỉ sống bằng khu vực năng lượng chứ không có sản phẩm nào khác thì sẽ vất vả. Đó là trường hợp của Liên bang Nga, một xứ lạc hậu về kinh tế với sản lượng Vodka và võ khí rất khó bù lỗ cho ngành dầu khí. Nếu dầu thô mà sụt dưới 90 bạc là ngân sách sẽ lủng và chính trường chung quanh Putin sẽ lủng củng. Putin có thể ngang nhiên làm thịt Ukraine trước sự bất lực và hậm hực của các nước Tây phương, nhưng lại bị thị trường trừng phạt còn nặng hơn chính trường Âu Mỹ!

    Cũng vì vậy mà Putin đã cố tình quậy nát Trung Đông, cho cậu bé Barack Obama cầm lon nước đi chữa lửa, để giữ giá dầu trên cái ngưỡng trăm bạc. Dù nước Nga chẳng là thành viên của OPEC, Putin vẫn cố gửi Sechin qua Vienna tiếp xúc với Saudi Arabia, Venezuela và Mexico để kêu gọi các nước xuất cảng hãm vòi sản xuất, mà không xong. Lý do là nhiều nước OPEC cùng thấy rằng chính Putin cũng chẳng thể hãm vòi của các giếng dầu ở Tây Bá Lợi Á.

    Nhìn trong trường kỳ, người ta không quên là trong một phần tư thế kỷ, từ 1975 đến năm 2000, là giá dầu thô chỉ ở mức 12 tới 40 đô la một thùng mà thôi. Trong khoảng thời gian đó, sau khi Michael Gorbachev lên lãnh đạo Liên bang Xô viết, giá dầu còn sụt mạnh vào cuối năm 1985 khi Saudi Arabia mở vòi bơm...

    Hai năm sau là Liên Xô cạn vốn. Hai năm suy sụp kinh tế sau đó mới góp phần làm cho chế độ tan tành.

    Người ta cứ nghĩ rằng khi dầu thô lên giá, xứ nào cũng cố gắng bảo đảm nguồn cung cấp và vì vậy mà chiến tranh càng dễ bùng nổ. Nhưng khi dầu thô sụt giá trong nhiều năm liền, là trường hợp ngày nay, thế giới cũng rất dễ bị khủng hoảng. Gorbachev đã thấy điều đó.

    Xin hãy ngồi xem.

    Nhưng chính là trong kịch bản ấy ta mới nhớ đến kế hoạch của Putin khi chạy qua bán năng lượng cho Trung Quốc. Putin đã tưởng rằng khôn và độc khi nhận tiền dầu bằng đồng bạc của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ mất giá nữa trong trận chiến hối đoái sắp tới. Trong khi đô la cứ lặng lẽ lên giá một cách đáng ghét. Kết quả là Nga thu về một đồng tiền mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập cảng khác bằng tiền Mỹ.

    Rõ là hỏa bốc lên đầu khi dầu thô sụt giá!

    Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

    Đức Thánh Cha viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu châu


    Thứ tư - 26/11/2014 21:59


    Đây là chuyến viếng thăm thứ 5 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và là chuyến ngắn nhất trong lịch sử cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng ở hải ngoại, chỉ có khoảng 4 tiếng đồng hồ. Đây là lần thứ 2 một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm 2 tổ chức quốc tế này: lần đầu tiên cách đây 26 năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đến Strasbourg trong khuôn khổ chuyến viếng thăm của ngài tại Pháp từ mùng 8 đến 11 tháng 10 năm 1988. Tuy nhiên Đức Phanxicô là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Âu đến viếng thăm 2 cơ quan quốc tế này.


    STRASBOURG. ĐTC Phanxicô đã dành ngày 25-11-2014 để viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu Châu ở thành phố Strasbourg bên Pháp.
    Đây là chuyến viếng thăm thứ 5 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và là chuyến ngắn nhất trong lịch sử cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng ở hải ngoại, chỉ có khoảng 4 tiếng đồng hồ. Đây là lần thứ 2 một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm 2 tổ chức quốc tế này: lần đầu tiên cách đây 26 năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đến Strasbourg trong khuôn khổ chuyến viếng thăm của ngài tại Pháp từ mùng 8 đến 11 tháng 10 năm 1988. Tuy nhiên Đức Phanxicô là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Âu đến viếng thăm 2 cơ quan quốc tế này.

    Đến phi trường Fiumicino của thành Roma lúc gần 8 giờ sáng, ĐTC đã đáp máy bay Airbus A320 của hãng Alitalia trực chỉ thành phố Strasbourg cách đó 828 cây số về hướng bắc. Trong đoàn tùy tùng của ngài, có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức TGM phụ tá là Angelo Becciu.

    Strasbourg hiện nay là thành phố có 1 triệu 145 ngàn dân cư, giáp giới với nước Đức, và được coi như thủ đô của Liên hiệp Âu Châu với nhiều tổ chức quốc tế tại đây. Đến phi trường Strasbourg lúc 10 giờ sau hai giờ bay từ Roma, ĐTC đã được giáo quyền và đại diện chính quyền địa phương tiếp đón, cùng với hai vị Hồng Y chủ tịch Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu cũng như ĐHY Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu và liền đó ngài tiến về trụ sở của Nghị viện Âu Châu.

    Đây là cơ quan lập pháp của Liên hiệp 28 nước Âu Châu với 508 triệu dân cư. Trong những thập niên gần đây, nghị viện này dần dần đạt được những thẩm quyền lớn hơn và hành động trong tư cách là đồng lập pháp trong hầu hết các lãnh vực luật pháp của Liên hiệp. Nghị viện này hiện nay có 751 đại biểu được bầu lên theo thể thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Số ghế được phân chia theo tỷ lệ dân số của các quốc gia thành viên. Số nữ đại biểu chiếm hơn 1 phần 3. Các đại biểu họp thành những nhóm theo lập trường chính trị chứ không theo tiêu chuẩn quốc tịch.

    Đến nơi, ĐTC đã được các vị lãnh đạo và đại diện của 8 nhóm chính trị của Nghị Viện đón tiếp, rồi ngài hội kiến với vị chủ tịch nghị viện là Ông Martin Schulz người Đức, trước khi gặp chung và phát biểu trước tất cả các đại biểu thành viên trong phiên nhóm trọng thể.

    Tóm lược diễn văn ca ĐTC

    Trong diễn văn, ĐTC nhắc lại sự kiện cách đây 26 năm, vào ngày 11-10 năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm nghị viện Âu Châu. Trong thời gian qua, thế giới đã thay đổi rất nhiều, trở nên lệ thuộc nhau và hoàn vũ hơn, ”bớt qui hướng về Âu Châu như trung tâm”. Bên cạnh một Liên hiệp Âu Châu mở rộng và ảnh hưởng hơn, dường như có hình ảnh về Âu Châu già nua và thu hẹp lại hơn.

    Khi ngỏ lời với quí vị ngày hôm nay, từ ơn gọi mục tử của tôi, tôi muốn gửi đến các công dân Âu Châu một sứ điệp hy vọng và khích lệ. Một sứ điệp hy vọng dựa trên lòng tín thác rằng những khó khăn có thể trở thành động cơ mạnh mẽ thăng tiến sự hiệp nhất, để chiến thắng mọi sợ hãi mà Âu Châu cùng với thế giới đang trải qua. Niềm hy vọng nơi Chúa, Đấng biến sự ác thành điều thiện và biến sự chết thành sự sống”.

    ĐTC nhắc lại rằng: ”Các vị sáng lập liên hiệp Âu Châu đã đặt con người ở trung tâm dự án của mình, không phải như một công dân, và càng không phải như một chủ thể kinh tế, nhưng trong tư cách là một nhân vị có phẩm giá siêu việt”. Thực vậy, sau thế chiến thứ 2 người ta càng thấy rõ ước muốn bảo đảm ”phẩm giá”, các quyền con người, huấn luyện lương tâm về đặc tính quí giá, có một không hai và không thể lập lại được của mỗi người...

    ”Ngày nay sự thăng tiến các quyền con người chiếm một vai trò trung tâm và đáng ngưỡng mộ trong sự dấn thân của Liên hiệp Âu Châu. Nhưng vẫn còn có quá nhiều tình trạng trong đó con người bị đối xử như đồ vật, và người ta có thể xếp đặt chương trình khi nào thụ thai, hình thành, lợi ích của con người, và rồi con người có thể bị vứt bỏ đi khi không còn hữu ích nữa, vì họ trở nên yếu nhược, bệnh tật hoặc già nua. Vẫn còn có những tình trạng trong đó con người không được tự do bày tỏ tư tưởng của mình, tuyên xưng niềm tin tôn giáo mà không bị cưỡng bách và giới hạn, khi thiếu khuôn khổ pháp lý rõ ràng hạn chế sự thống trị của võ lực và nêu cao luật pháp trên sự độc đoán của quyền lực, trên sự kỳ thị con người. ĐTC đặt câu hỏi: ”Thứ phẩm giá nào con ngừơi có thể tìm được khi mà họ không có lương thực hay điều tối thiểu để sống, và tệ hơn nữa khi họ không có công ăn việc làm xứng với phẩm giá con người?”.

    ĐTC nói đến những mơ hồ nảy sinh từ sự hiểu lầm ý niệm các quyền con người và từ sự lạm dụng mâu thuẫn các quyền này: càng ngày người ta càng đòi hỏi nhiều hơn các quyền cá nhân, được coi như các quyền của con người bị tách rời khỏi bối cảnh xã hội và nhân học, hầu như một ”đơn nguyên”, ngày càng thiếu nhạy cảm đối với các đơn nguyên khác quanh mình; một sự đòi hỏi các quyền không kèm theo các nghĩa vụ, không để ý đến bối cảnh xã hội của con người, trong đó các quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với các quyền của ngừơi khác và công ích của chính xã hội... Nếu quyền của mỗi người không được hướng về thiện ích lớn hơn một cách hài hòa thì rốt cục nó bị coi như không có giới hạn và trở thành nguồn mạch sinh ra những xung đột và bạo lực”.

    Một điểm khác được ĐTC nhấn mạnh là phẩm giá siêu việt của con người, phẩm giá này liên hệ tới bản tính con người, với 'địa bàn' được ghi khắc trong tâm hồn chúng ta và Thiên Chúa đã in vào trong vũ trụ Ngài sáng tạo. Trước tiên, cần nhìn con người như một hữu thể có tương quan. Ngày nay, tại Âu Châu bệnh cô đơn đang lan tràn, đặc biệt là của những người thiếu các liên hệ. Bệnh cô đơn càng trở nên cấp tính hơn vì khủng hoảng kinh tế. Người ta cũng ghi nhận có sự gia tăng sự thiếu tín nhiệm của các công dân đối với các tổ chức mà họ coi là xa cách, những tổ chức lo thiết lập những qui luật mà họ coi là xa lạ, - nếu không muốn nói là có hại, - đối với sự nhạy cảm của mỗi dân tộc. Có một cảm tưởng chung về sự mệt mỏi và già mua của một Âu Châu trở thành bà già, không còn sinh sản và linh hoạt nữa. Các lý tưởng cao cả đã từng gợi hứng cho Âu Châu nay dường như mất sức thu hút, và nhường chỗ cho những kỹ thuật bàn giấy của các tổ chức”. Người ta cũng cay đắng nhận thấy sự trổi vượt của các vấn đề kỹ thuật và kinh tế trong các cuộc thảo luận chính trị; con người bị thu hẹp thành một thứ hộp số trong bộ máy, và bị coi như một sản phẩm tiêu thụ được sử dụng và gạt bỏ chẳng chút tiếc thương, như trong trường hợp các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, những người già bị bỏ rơi và không được săn sóc, các trẻ em bị giết trước khi chào đời. Nền văn hóa gạt bỏ và tiêu thụ thái quá tạo nên sự tuyệt đối hóa kỹ thuật, chiếm ưu thế hơn sự khẳng định phẩm giá con người, sự quí giá của đời sống con người.

    ĐTC đặt câu hỏi: ”Vậy làm sao mang lại hy vọng cho tương lai, mang lại tín thác để tiếp tục theo đuổi lý tưởng cao cả một Âu Châu hiệp nhất và an bình, đầy tính sáng tạo và biến báo, tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của mình? ĐGH lấy ví dụ bức bích họa của Raphael diễn tả trường học ở Athènes và tổng hợp tư tưởng của Palton và Aristote: đó là một hình ảnh mô tả thật rõ đặc tính của lịch sử Âu Châu, về sự liên tục gặp gỡ giữa trời, tức là sự cởi mở đối với siêu việt, và đất, là khả năng thực hành cụ thể, trong việc đương đầu với những hoàn cảnh và vấn đề. Một Âu Châu không còn khả năng cởi mở đối với chiều kích siêu việt của sự sống là một Âu Châu dần dần bị nguy cơ đánh mất tinh thần nhân bản, mất đi vị trí trung tâm của con người. Kitô giáo không những cung cấp một gia sản cơ bản trong việc huấn luyện xã hội văn hóa của đại lục này, nhưng còn nhắm mang lại ngày nay và tương lai một đóng góp cho sự phát triển của Âu Châu. Sự đóng góp này không phải là một nguy hiểm cho đặc tính đời của các quốc gia và cho sự độc lập của các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu trái lại, làm cho những tổ chức này được thêm phong phú phù hợp với nguyên tắc phụ đới và liên đới với nhau, một thuyết nhân bản qui trọng tâm vào sự tôn trọng phẩm giá con ngừơi.

    ĐTC xác quyết sự sẵn sàng của Tòa Thánh, của Giáo Hội Công Giáo, và qua Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu, Comece, đối thoại minh bạch và phong phú với các tổ chức Âu Châu. Ngài cũng nói đến nhiều bất công và bách hại mà các nhóm tôn giáo thiểu số, nhất là các tín hữu Kitô đang phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới; ngài nhắc đến các cộng đoàn và những cá nhân bị bạo lực dã man, bị trục xuất khỏi gia cư và quê hương, bị bán như những nô lệ, bị giết, bị chặt đầu, bị đóng đanh và thiêu sống, trong sự thinh lặng ô nhục và đồng lõa của bao nhiêu người.

    Ngài nhận xét rằng: ”Khẩu hiệu của Liên hiệp Âu Châu 'hiệp nhất trong sự khác biệt', không có nghĩa là đồng nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa hay tư tưởng, nhưng chỉ rõ một gia đình các dân tộc, với những tổ chức của Liên Hiệp, biết liên kết lý tưởng hiệp nhất với sự khác biệt của mỗi người, đề cao giá trị của mỗi truyền thống, sự phong phú của các lịch sử và căn cội, giải thoát mình khỏi bao nhiêu lèo lái và ghét bỏ. Đặt con người ở trung tâm trước tiên có nghĩa là để cho con người tự do biểu lộ khuôn mặt và óc sáng tạo của mình trên bình diện cá nhân và dân tộc. Các nguyên tắc liên đới và phụ đới, hiện diện trong việc hình thành Âu Châu giúp chúng ta trong chiều hướng này”.

    ĐTC nhấn mạnh rằng:
    ”Thách đố củng cố nền dân chủ của các dân tộc Âu Châu đòi phải tránh một quan niệm đồng điệu về sự đại đồng, làm giảm mất đi sự tương phản phong phú và xây dựng của các tổ chức và các đảng phái với nhau, một quan niệm đồng điệu đưa tới sự lẫn lộn thực tại của nền dân chủ với một thứ thuyết duy danh mới về chính trị. Nhưng thách đố làm sao củng cố các nền dân chủ Âu Châu cũng bao hàm sự bảo vệ sức mạnh biểu lộ chính trị của các dân tộc Âu Châu liên quan đến những sức ép của lợi lộc liên quốc chứ không phải mọi người, làm cho nó suy yếu và biến nó thành những quyền lực tài chánh đồng nhất phục vụ những đế quốc vô danh. Mang lại hy vọng cho Âu Châu có nghĩa là đầu tư trong các lãnh vực trong đó hình thành các tài năng của con người; kiến tạo những điều kiện thuận lợi cho đời sống gia đình, sự hiệp nhất, phong phú và bất khả phân ly; có nghĩa là mang lại những viễn tượng cho các thế hệ trẻ và nhiều người già, cho sự phát triển giáo dục, các trường học và đại học; huấn luyện đầy đủ để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng; có nghĩa là nhìn những tiềm năng sáng tạo nghiên cứu khoa học, nhất là trong các lãnh vực chưa được khám phá, như lãnh vực các nguồn năng lực khác.

    Cũng trong diễn văn tại Nghị viện Âu Châu sáng hôm qua (25-11), ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dấn thân bảo vệ môi sinh và bảo tồn thiên nhiên. Thiên nhiên là để chúng ta sử dụng, cần dùng thiên nhiên để mưu công ích; không được chiều theo sự kiêu ngạo thống trị, lèo lái, bóc lột thiên nhiên. Không thể chấp nhận sự kiện hằng triệu người trên thế giới chết đói, trong khi bao nhiêu tấn thực phẩm bị gạt bỏ mỗi ngày khỏi bàn ăn của chúng ta. Môi sinh cũng liên hệ tới chính con người. Chính con người là thành phần căn bản của môi sinh, vì thế cần có một môi sinh nhân bản, với sự tôn trọng chính con người.

    Trong số những yếu tố không thể thiếu được để mang lại hy vọng cho Âu Châu, ĐTC cũng nói đến các vấn đề liên hệ tới công ăn việc làm và ngài tái khẳng định sự cấp thiết phải mang lại phẩm giá cho lao công. Điều này có nghĩa là tìm ra những phương thức mới để dung hợp sự uyển chuyển của thị trường với sự cần thiết của ổn định và chắc chắn về viễn tượng công ăn việc làm và cũng tạo điều kiện cho một khung cảnh xã hội thích hợp, không nhắm tới sự khai thác con người, nhưng bảo đảm qua công việc làm khả năng thành lập gia đình và giáo dục con cái.

    ĐTC cũng nói về vấn đề di dân: Không thể chấp nhận để cho Địa Trung Hải trở thành một nghĩa trang lớn, vì thế cần phải trình bày rõ ràng căn tính văn hóa của mình và đề ra những luật lệ thích hợp, biết bảo vệ các quyền của công dân Âu Châu và bảo đảm sự tiếp đón người di dân; nhưng cũng cần chấp nhận những chính sách cụ thể giúp các nước xuất cư trong việc phát triển xã hội kinh tế và vượt thắng những xung đột nội bộ, trái lại những chính sách lợi lộc giá tăng và nuôi dưỡng các xung đột.

    Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh vai trò của sự ý thức căn tính của mình để đối thoại một cách tích cực với các quốc gia đã yêu cầu được gia nhập Liên hiệp Âu Châu trong tương lai: trong vùng Balcan, trong các quan hệ với các nước lân cận, đặc biệt những nước ven bờ Địa Trung Hải. Nhiều nước đang chịu đau khổ vì các cuộc xung đột nội bộ, vì sức ép của trào lưu cực đoan tôn giáo và khủng bố quốc tế. Các vị đại biểu quốc hội cũng như các nhà lập pháp, có nghĩa vụ giữ gìn và làm tăng trưởng căn tính Âu Châu để các công dân tìm lại được niềm tín thác nơi các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu và trong dự án Âu Châu về hòa bình và thân hữu.

    Một lịch sử hai ngàn năm liên kết Âu Châu với Kitô giáo, nhưng lịch sử này phần lớn vẫn còn phải viết lên, để cùng nhau xây dựng một Âu Châu không xoay quanh kinh tế, nhưng quanh sự thánh thiêng của con người, các giá trị bất khả nhượng. Đã đến giờ xây dựng Âu Châu can đảm ấp ủ quá khứ của mình và tin tưởng nhìn về tương lai của mình để sống trọn vẹn và sống hiện tại trong hy vọng. Đã đến lúc từ bỏ ý tưởng một Âu Châu sợ hãi và co cụm vào mình để khơi dậy một Âu Châu nắm vai chính, mang khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, các giá trị nhân bản và cả đức tin. Âu Châu nhìn, bảo vệ, bênh đỡ con người; Âu Châu tiến bước trên trái đất chắc chắn và vững chãi, là điểm tham chiếu quí giá cho toàn thể nhân loại”.

    Bài diễn văn của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay hưởng ứng của các đại biểu và khi ngài vừa dứt lời, mọi người đã đứng lên nồng nhiệt vỗ tay cám ơn.

    Ông chủ tịch Martin Schulz đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC vì bài diễn văn ”chỉ đường” của ngài và ông gọi đó cũng là hướng đi trong tương lai của Liên hiệp Âu Châu này.

    Viếng thăm Hi đồng Âu Châu

    Rời Nghị viện, ĐTC tiến sang trụ sở Hội đồng Âu Châu chỉ cách đó 700 mét để viếng thăm. Bên ngoài Hội đồng có hàng ngàn người đứng chào mừng ngài. Tổ chức này được thành lập cách đây 65 năm và gồm các vị đại sứ của 47 nước và 150 thành viên thuộc nghị viện, 100 thành viên của hội đồng chính quyền địa phương và miền, 47 vị thẩm phán của tòa án Âu Châu về nhân quyền.

    Khi đến trụ sở Hội đồng Âu Châu ĐTC đã được ông tổng thư ký Thorbjorn Jagland, 63 tuổi người Na Uy cùng với các giới chức của Hội đồng đón tiếp.

    Sau nghi thức tiếp đón chính thức và hội kiến với các giới chức lãnh đạo Hội đồng, ĐTC đã tiến vào thính đường trong khóa họp long trọng của tổ chức này.

    Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Tổng thư ký, ĐTC nhắc đến sự tàn bạo của thế chiến thứ 2, và sự chia rẽ Âu Châu thành hai khối, hai bên bức màn sắt, từ đó ngài nói đến tiến trình xây dựng thống nhất và hòa bình, bắt đầu từ sự giáo dục về hòa bình, loại trừ nền văn hóa xung đột, loại bỏ những người không nghĩ hoặc sống như mình.

    ĐTC đặc biệt lên án sự khủng bố tôn giáo và trào lưu khủng bố quốc tế coi rẻ sinh mạng con người, nạn buôn bán khí giới mà không bị ngăn trở. Hòa bình cũng bị đe dọa vì những hình thức nô lệ mới, nạn buôn người, biến con người thành hàng hóa trao đổi.

    ĐTC ca ngợi nỗ lực của Hội đồng Âu Châu kiến tạo hòa bình qua sự thăng tiến các quyền con người. Ngài cũng cổ võ sự tìm kiếm sự thật, để tránh tình trạng mỗi người tự lấy mình làm mẫu mực, mở đường cho sự khẳng định chủ quan các quyền lợi. ĐTC cảnh giác chống lại sự hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng phát xuất từ lòng ích kỷ, không có khả năng sống chiều kích xã hội đích thực. Từ cá nhân chủ nghĩa dửng dưng nảy sinh sự tôn thờ giàu sang sung túc.

    Sau cùng, ĐTC cho biết Giáo Hội Công Giáo, qua Liên HĐGM Âu châu, sẵn sàng cộng tác với Hội đồng Âu Châu, nhất là trong lãnh vực suy tư luân lý đạo đức về những đề tài như bảo vệ sự sống con người, các lãnh vực y khoa, khoa học hoặc pháp luật.

    Sau cuộc viếng thăm tại tổ chức này, ĐTC giã từ Strasbourg để đáp máy bay trở về Roma lúc quá 4 giờ chiều cùng ngày 25-11-2014.

    PopeFrancis-25Nov2014-3.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-2.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-4.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-5.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-6.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-12.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-7.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-8.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-9.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-10.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-11.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-9.jpg

    PopeFrancis-25Nov2014-1.jpg


    (G. Trần Đức Anh OP)

    Giáo hội Công giáo Myanmar đánh dấu 500 năm

    Thứ tư - 26/11/2014 22:15



    Hàng ngàn giáo dân đã đến Yangon vào ngày thứ Sáu tuần trước để bắt đầu ba ngày kỷ niệm lần thứ 500 đạo Công giáo đến Myanmar.
    Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám mục Mumbai, tham dự lễ khai mạc kỷ niệm tại Nhà thờ Chính tòa Đức Mẹ ở Yangon. Ngài đại diện cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, gởi lời chúc tốt đẹp và yêu thương của Đức Giáo Hoàng dành cho người dân Myanmar.
    “Hôm nay không chỉ là ngày vui và ngày lễ lớn, nhưng còn là dịp để phản tỉnh về những gì chúng ta có thể làm hoặc chưa làm được, chúng ta đã dấn thân theo Tin Mừng ở mức độ nào, làm sao chúng ta có thể biến đổi xã hội và làm thế nào chúng ta có thể phục vụ người dân Myanmar tốt hơn,” Đức Hồng y Gracias nói.
    Trong bài phát biểu chào mừng Hồng y Ấn Độ, Đức Tổng Giám mục Charles Bo của Yangon đã ca ngợi tinh thần của Giáo hội Myanmar trong bối cảnh khó khăn.
    “Nghèo đói và bắt bớ – thậm chí chết chóc – đã đến trong chúng ta, nhưng những điều đó không hề làm cho giáo dân nao núng trong việc làm chứng đức tin,” Đức Tổng Giám mục Bo cho biết.
    “Niềm tin đó đã được kết hợp bởi nước mắt và máu giúp nối kết chúng ta ngày hôm nay từ mọi ngõ ngách của Myanmar.”
    Kitô giáo vẫn còn là thiểu số trong đại đa số là Phật giáo ở Myanmar. Số người Công giáo khoảng 750.000 trong tổng số dân ước tính khoảng 50 triệu, theo một cuộc điều tra dân số gây tranh cãi tiến hành trong năm nay.
    Giáo hội Myanmar đã phát triển đáng kể trong những năm Tướng Ne Win lên nắm quyền và khởi xướng con đường Chủ nghĩa Xã hội tồi tệ cho Myanmar, đưa đến trục xuất các nhà truyền giáo và cô lập gần như hoàn toàn đất nước này.
    Giờ đây, Myanmar đang cung cấp các linh mục và tu sĩ cho các nước khác, Đức Tổng Giám mục Bo nói với ucanews.com trong một cuộc phỏng vấn tại nơi cư trú của ngài trước lễ hôm thứ Sáu.
    “Kể từ khi chính phủ công bố chương trình cải cách vào năm 2011, nhiều Dòng Tu khác đã xuất hiện ở Myanmar, vì đó như một mảnh đất màu mỡ cho các tập sinh. Vì vậy, có rất nhiều sự thi đua,” Đức Tổng Giám mục Bo cho biết.
    Ngài nói thêm rằng Myanmar hiện đang có 300 chủng sinh chuẩn bị cho chức linh mục, và Giáo hội ở đây đã có sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, trong những năm gần đây.
    “Myanmar, là nước điển hình trong các nước đang phát triển, bạn sẽ thấy trong các làng thường có khoảng 10 đến 20 người trở lại đạo Công giáo cùng một lúc. Người đứng đầu gia đình quyết định trở lại đạo và những người khác noi theo,” Đức Giám mục nói.
    Đức Tổng Giám mục Bo nói thêm rằng ngài hy vọng Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ sắp xếp lịch viếng thăm Myanmar vào năm tới như là một phần chú ý đến châu Á. Đức Thánh cha đến thăm Hàn Quốc vào tháng Tám nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu và sẽ có các chuyến tông du đến Sri Lanka và Philippines vào tháng Giêng năm tới.
    Mừng kỷ niệm Giáo hội vào thời điểm quan trọng trong lịch sử của đất nước, chính phủ bán dân sự Myanmar đấu tranh để theo đuổi đến cùng quá trình cải cách chuyển sang dân chủ sau nhiều thập kỷ cai trị bởi quân sự.
    Giáo hội có một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi đó, theo cha Maurice Nyunt Wai, thư ký điều hành của Hội đồng Giám mục Công giáo Myanmar.
    “Những gì chúng ta cần hiện nay là tham gia vào việc xây dựng quốc gia, tiến trình hòa bình và hòa giải dân tộc. Giáo hội phải tiếng nói trong nhiều tiếng nói, và phải đứng về phía người dân bị thiệt thòi,” ngài nói với ucanews.com hôm thứ Sáu.
    Thỏa thuận ngừng bắn với các nhóm sắc tộc vũ trang là trung tâm quá trình cải cách của chính phủ, nhưng bức tranh bị hoen ố bởi bạo lực vẫn tiếp diễn giữa các nhóm sắc tộc.
    Gần đây nhất, quân đội Myanmar hôm thứ Tư trong vỏ bọc sĩ quan huấn luyện của học viện ở bang Kachin gần biên giới Trung Quốc, đã giết chết 23 học viên – chỉ vài ngày sau chuyến thăm nhà nước của Tổng thống Mỹ Barack Obama, trong đó ông cảnh báo rằng sự tiến bộ của đất nước theo hướng cải cách là không thể đảo ngược.
    Bauk Naw, một giáo lý viên từ giáo phận Banmaw trong tiểu bang Kachin nói Giáo hội đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc cộng đồng Kachin, phục vụ liên tục trong hơn hai năm qua ở phía đông bắc của Myanmar.
    Ông là một trong số khoảng 4.000 người Kachin đã đến Yangon để mừng kỷ niệm 500 năm Giáo hội có mặt tại Myanmar.
    Đỉnh cao của ba ngày kỷ niệm diễn ra tại sân vận động Yangon vào ngày Chúa nhật, với sự có mặt của Sứ thần Giáo hoàng tại Philippines, Adolfo Tito Yllana.

    ucanews

    Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

    Vượt qua hận thù : trường hợp của nước Pháp và Đức sau thế chiến thứ hai



     Bài viết của  :   Đoàn Thanh Liêm

    Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến 1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).

    Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất đó.

    Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.

    I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.

    Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức - (do nước Phổ sáp nhập hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị tước đọat này.

    Tiếp theo vào năm 1914 - 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối với dân tộc láng giềng là Pháp.

     Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.

    Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.


    II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.

    Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch Marshall.

    Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.

    Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.


    III – Câu chuyện của Irène Laure ( 1898 – 1987).

    Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện.  Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “ quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên lên tới 3 triệu người.

    Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “ Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”

    Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.

    Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).

    Một sự im lặng kéo dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).

    Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).

    Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế giới.”

     Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.

    Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./

    California, Tháng Hai 2011

    Đoàn Thanh Liêm