Bài viết của :
Đoàn Thanh Liêm
Giữa hai dân tộc
nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong
nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870
với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến
1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập
niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà
cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây
dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi
tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị
kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp
Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số
tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và
tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).
Sự hòa giải và hợp
tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất
trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong
thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế
kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do
sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất
chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái
quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất
đó.
Để bạn đọc dễ dàng
theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại
khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của
hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.
I – Bối cảnh lịch
sử cận đại tại Tây Âu.
Như ta đã biết vào
năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội
quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck.
Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể
của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa
( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất
Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức - (do nước Phổ sáp nhập
hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay
đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “
Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng
đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị
tước đọat này.
Tiếp theo vào năm
1914 - 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng
Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả
hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất
Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá
khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối
với dân tộc láng giềng là Pháp.
Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ
hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị
quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc
liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi
đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá
kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.
Như vậy là chỉ
trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy
ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao
nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng
thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.
II – Quá trình Hòa
giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.
Sau khi cuộc chiến
tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang
tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go
căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn
đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào
phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông
qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch
Marshall.
Nhưng vai trò chủ
yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh
đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad
Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế
hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều
sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu
châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi
thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.
Mà đúng theo với
nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự
ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân
tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà
Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn
trong phần tiếp theo liền sau đây.
III – Câu chuyện
của Irène Laure ( 1898 – 1987).
Irene Laure xuất
thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện. Victor người chồng của bà là một thủy thủ và
là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ
hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille
chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn
bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết
hết, và “ quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến
tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ
chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên lên tới 3 triệu người.
Tháng chín năm
1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng
với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral
Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật
văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn
có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được
biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã
ngưng chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “
Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái
thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”
Dẫu vậy, khi được
mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi
phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn
vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin
ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng
thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ
Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.
Trong bữa ăn này,
Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa
trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã.
Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi
muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).
Một sự im lặng kéo
dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản
thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott
có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler
vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một
mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức
chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và
với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả
thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói
lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).
Sau bữa ăn này,
hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn
xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức rằng bà
tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène
cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn
xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène
bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène
tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây
cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always
held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và
Đức).
Cuối cùng Irène đã
phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của
600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị
xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều
sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi
đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène.
Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn
lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế
giới.”
Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng
là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên
họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói
lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ
quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.
Và đó là bước khởi
đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc
Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai
nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã có tác động mãnh
liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện
mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp phần chủ yếu
vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở
thế kỷ XXI vậy./
California, Tháng
Hai 2011
Đoàn Thanh Liêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét