“…chính
những người tham gia vào xem triển lãm lại là những người luôn có những
cái thở dài và lắc đầu ngán ngẩm mà không dám phản ứng khi bên cạnh,
bên ngoài là hàng loạt công an. Một người chụp ảnh liên tục các hiện vật
lầm bầm trong miệng: “Đ.M, cứ tưởng là chúng nó phục thiện, biết nhận
lỗi, ai ngờ lại bày trò lưu manh này ra”…
Phần I
Tôi sinh ra
sau khi cuộc “Cải cách ruộng đất” được thực hiện xong. Khi tôi có chút
hiểu biết thì những sự kiện đã xảy ra trước đó cả chục năm vẫn hàng
ngày, hàng giờ được nhắc lại như một nỗi kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng đó
không phải là bom rơi, đạn lạc, người chết hay lũ lụt… mà nó hiển hiện
và tồn tại trong từng công việc, từng cách nghĩ, việc làm của người dân
Việt Nam đã chịu ảnh hưởng từ “cuộc cách mạng long trời lở đất” trước đó
được gọi là “Cải cách ruộng đất”.
“Long” và “lở”
Ở cuộc cách
mạng đó, điều duy nhất đạt được thành công rõ nét nhất, chính là sự phá
hủy nhanh chóng một nền văn hóa Việt Nam được xây dựng qua cả ngàn năm
và thường xuyên được coi là nền văn hiến quý báu từ lâu đời.
Cuộc “Cải
cách ruộng đất” với khẩu hiệu rất đơn giản, hiền lành “Người cày có
ruộng” đã nhanh chóng đưa cả xã hội Việt Nam với con số nông dân chiếm
tuyệt đối lao vào một cơn cuồng nộ cướp, phá, giết… bất chấp tất cả
những nguyên tắc xã hội xưa nay là bảo vệ sự công bằng, bác ái và nhân
hậu, trật tự và luân lý. Ở cuộc “Cải cách ruộng đất” đó, những giá trị
tinh thần bị hủy hoại rất thành công. Những hiện tượng con đấu cha, vợ
tố chồng vốn là điều tối kỵ trong truyền thống văn hóa Việt Nam từ ngàn
đời không hề được dung dưỡng, này được dịp tha hồ thể hiện để “lập
công”.
Có thể nói,
cuộc “Cải cách ruộng đất” đã thật sự làm “long” và “lở” không chỉ là
trời đất, mà thực sự đã làm long, lở và sụp đổ, tan rã một hệ thống đạo
đức, văn hiến tự ngàn đời. Nhà văn Dương Thu Hương có viết, đại ý rằng:
Đất nước Việt Nam đã qua lịch sử cả ngàn năm, trải qua bao nhiêu chế độ.
Nhưng, chưa có một chế độ nào có thể làm cho con đấu cha, vợ tố chồng,
con gái, con dâu vu cáo cha đẻ, bố chồng cưỡng hiếp mình. Chỉ có chế độ
Cộng sản làm được điều “vĩ đại” đó mà thôi.
Và cứ thế,
xã hội đi vào cơn trầm luân của chủ nghĩa vô thần, vô luân, vô luật
pháp. Kể từ đó, cái gọi là “vô sản”, cái sự “nghèo” được coi là môt phẩm
chất tốt đẹp nhất để tiến thân trong xã hội cộng sản. Sự phân tầng xã
hội căn cứ vào mức độ “nghèo” của cá nhân đạt đến mức nào. Có thể nói
rằng: Trừ giai đoạn những người Cộng sản lộ nguyên hình là các tư bản
đỏ, phần trước đó, sự nghèo khó là tấm áo khoác của hầu như toàn bộ bộ
máy lãnh đạo, là nấc thang, là tiêu chuẩn cho việc thăng quan, tiến chức
và cầm quyền trong xã hội Việt Nam.
Câu khẩu
hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của Trần Phú Tổng bí
thư Đảng cộng sản được dùng như một câu Kinh Thánh trong mọi hành động
xã hội, đã nhanh chóng đưa Việt Nam vượt ra khỏi ranh giới xã hội loài
người. Cái gọi là “thành phần” xuất hiện trong “Cải cách ruộng đất” thời
đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch
của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu “thành phần” nghĩa là
cái gì và từ đâu ra.
Dần dần theo
với thời gian, với những lo toan của cuộc sống đầy gian nan vì kinh tế,
giá cả, độc hại, môi trường… người ta nguôi ngoai dần với những tội ác
mà cái gọi là “Cải cách ruộng đất” đã gây ra cho dân tộc. Cả xã hội, cả
đất nước gồng mình lên qua bao cuộc chiến tranh và cố quên đi những nhức
nhối, lở loét, hận thù âm ỉ trong lòng người nông dân xuất phát từ cuộc
“Cải cách ruộng đất” đã qua.
Bỗng nhiên, hôm nay nhà nước mở “Triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội”.
Ngay từ khi
nghe tin có cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội, nhiều người
đã tỏ ý nghi ngờ về mục đích và nội dung của nó. Nhiều câu hỏi được đặt
ra: Tại sao sau 60 năm, giờ nhà nước Cộng sản mới nói đến Cải cách
ruộng đất? Phải chăng, họ muốn thật sự nhìn nhận lại những sai lầm,
những hậu quả để rút kinh nghiệm? Phải chăng, đã đến lúc nhà cầm quyền
cộng sảnViệt Nam hiểu rằng không thể có điều gì giấu kín mãi được. Khi
mà sự bưng bít đang được thực hiện, thì những tác phẩm như Ba người khác
của Tô Hoài, Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên và mới đây là Đèn Cù của
Trần Đĩnh sẽ còn hấp dẫn bạn đọc trong và ngoài nước.
Và để hóa giải những điều đó, đảng đã dám “nhìn thẳng vào sự thật” như lời đảng tuyên bố cách đây… 30 năm?
Những câu hỏi đó, thôi thúc chúng tôi đến khai mạc “Trưng bày chuyên đề về Cải cách ruộng đất 1946-1957″ tại 25 Tôn Đản, Hà Nội.
Triển lãm hay cuộc đấu tố mới?
Khi chúng
tôi đến, thủ tục khai trương Triển lãm đã bắt đầu. Theo như Ban tổ chức,
thì việc triển lãm là nhằm để “cho thế hệ sau hiểu hơn về “Cải cách
ruộng đất””. Thế nhưng, nhìn vào đám người tập trung khoảng vài ba chục ở
buổi khai trương, người ta mới cảm nhận được rằng: Sau mấy chục năm
dưới sự lãnh đạo của đảng, thế hệ trẻ ngày nay cho rằng sự quan tâm đến
những vấn đề ngoài bản thân mình là điều xa xỉ. Tập trung xem triển lãm,
chủ yếu là mấy ông già hoặc công an, cán bộ, một số các cháu gái phục
vụ với áo dài đỏ lăng xăng đi lại cầm băng đỏ và kéo. hàng loạt các
phóng viên truyền hình, quay phim tua tủa. Chỉ có vậy.
Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lên phát biểu: “Cải
cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang
lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc
sống mới cho người dân Việt Nam”.
Chưa rõ cái
“dân chủ” cái “giá trị to lớn” của “Cải cách ruộng đất” ở đâu, người ta
chỉ biết rằng đó là một cuộc cướp bóc trắng trợn và được cả xã hội tiến
hành dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Hậu quả của nó là hàng trăm
ngàn con người bị cướp bóc, ảnh hưởng, hàng loạt người bị giết chết bằng
nhiều cách. Thậm chí là ngay cả những người là ân nhân của Đảng cũng
không thoát bày tay của đảng đưa sang thế giới bên kia mà miệng vẫn hô
vang “bác” và đảng muôn năm (!).
Thế rồi, tất
cả vào khu gian trưng bày hiện vật triển lãm. Không gian của Triển lãm
trong một căn phòng khá rộng, hơn 200 mét vuông.
Cũng không
có gì lạ khi nhìn hình thức bài trí của Triển lãm này. Nếu như, người ta
kinh hoàng đến tận ngày nay các buổi đấu tố địa chủ khi xưa, thì bây
giờ vào xem lại Triển lãm này, người ta sẽ thấy rõ tư duy đấu tố đang
được lặp lại dưới hình thức “Trưng bày hiện vật”.
Đó là khu
vực tố cáo đời sống “sung sướng, giàu có bọn địa chủ”, nào là cái điếu
hút thuốc, đôi giày thêu, chiếc ấm đồng, cái sập gụ… tất cả đều được đưa
ra ghép vào tội ác của bọn địa chủ, phong kiến.
Một vị nhìn
phương phi, mặc chiếc áo xám có hình cờ Việt Nam như các đại biểu Quốc
hội vẫn đeo đi cùng với vài quan chức của nhà bảo tàng. đám báo chí chĩa
máy quay, máy ảnh vào đó đi từng bước. Tôi đi bên cạnh một vòng theo
chiều kim đồng hồ bám dọc tường. Lời cô thuyết minh viên leo lẻo: “Những hiện vật này chứng minh rằng bọn địa chủ bóc lột nhân dân ta thậm tệ”.
Thế nhưng, có lẽ chính cô ta không hiểu từ “bóc lột” nó có nghĩa như
thế nào và trong những thứ được trưng bày ở đây, thứ nào là bóc, thứ nào
được lột và từ đâu.
Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ liên tục: “Cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất và nông dân đổi đời”… và rất nhiều ngôn từ như xưa nay đảng vẫn nói.
Tôi quay lại nói với vị này: “Quan
chức Cộng sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa, ăn chơi còn gấp trăm lần
địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền tham nhũng của dân,
còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của họ. Bây giờ
có ông quan hàng trăm ha đất như Chủ tịch Bình Dương thì bọn địa chủ sao
so được anh nhỉ?”
Qua chỗ hai người kéo cày, tôi bảo: “Bây giờ khác xưa rồi, bây giờ có tận bốn đứa học sinh kéo bừa cơ”.
Mọi người cười ồ, ông quan này cũng gật đầu đồng tình làm mình thấy lạ
là một ông quan có thái độ vui thế. Đi một đoạn, ông hỏi: Ở huyện nào
đấy? Không hiểu ông định hỏi quê quán hay nơi ở nhưng không tiện hỏi
lại, nên tôi trả lời: Tôi ở ngay HN đây thôi. Và cứ thắc mắc không biết
ông này là ai.
Cho đến khi
về nhà mới biết đó là ông Lê Như Tiến – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội. Chính ông này
đòi phải ra nghị quyết về Biển Đông hôm trước.
Có thể nói,
những hiện vật trưng bày trong cái gọi là Triển lãm này là một mô hình
đấu tố mới, nhằm lấp liếm, bào chữa cho những tội ác đối với ngay cả
những đồng bào của mình, đối với những người có đầu óc và tri thức làm
giàu cho quê hương đất nước. Bỗng dưng một ngày đẹp trời họ được hưởng
nhờ thành quả Mác – Lenin xếp họ vào “giai cấp bóc lột”. Và họ bị cướp
đoạt, bị tra tấn, bị bắn, bị giết và “Cải cách ruộng đất hoàn thành
thắng lợi”.
Cố thuyết minh viên chỉ vào hai chiếc áo rách mà rằng: “Đây
là hai chiếc áo của nông dân, bị bọn địa chủ bóc lột thậm tệ. Nhưng
không phải tất cả các địa chủ đều xấu, mà vẫn có những địa chủ tốt”. Khi hết buổi thuyết minh, tôi nói với cô ta: “Cô thuộc bài, nhưng nói có những địa chủ tốt là sai”. Cô ta hỏi lại: “Sai chỗ nào ạ”. Tôi đáp: “Cô có hiểu Trần Phú đã viết Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” hay không mà bảo có địa chủ tốt? Tốt sao phải đào?”. Cô ta ấp úng: “Nhưng mà những điều đó đã qua hơn 50 năm rồi ạ”. Tôi hỏi lại: “Vậy sao chiếc áo rách này hơn 50 năm vẫn còn giữ?”. Cả phòng triễn lãm cười vang.
Thật ra,
tranh luận với cô ta thì chẳng có mấy tác dụng. Nhưng điều thú vị, là
chính những người tham gia vào xem triển lãm lại là những người luôn có
những cái thở dài và lắc đầu ngán ngẩm mà không dám phản ứng khi bên
cạnh, bên ngoài là hàng loạt công an. Một người chụp ảnh liên tục các
hiện vật lầm bầm trong miệng: “Đ. M, cứ tưởng là chúng nó phục thiện,
biết nhận lỗi, ai ngờ lại bày trò lưu manh này ra”.
Và khi chụp hình xong, anh ta kết luận: “Thôi,
cái hay hôm nay, là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa
chủ, phong kiến ngày xưa chẳng là cái đ. gì so với bọn quan cộng sản
tham nhũng hôm nay”.
(Còn tiếp)
Hà Nội, ngày 9/9/2014
J. B Nguyễn Hữu Vinh
Theo RFA
J. B Nguyễn Hữu Vinh
Theo RFA
Bài đọc thêm:
iBook Cải Cách Ruộng Đất (02/12/2013)
Vài năm
sau ngày lên nắm chính quyền tại miền Bắc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho
thực hiện một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là
“long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất. Thống kê chính thức
cho biết là đã có 172. 008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú
nông, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị xử bắn tại chỗ thì
cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam, rồi con cái bị truy bức đến
ba đời sau.
Năm 1956,
tại miền Bắc Việt Nam, lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là
đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những
người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng
đất.
Đây là thời
kỳ được ghi dấu trong lịch sử dân tộc Việt Nam với những án tử hình thi
hành tại chỗ, những án tù dài hạn- mà hầu hết nạn nhân đều chết trong
khi đang bị giam cầm-, và một bầu không khí nặng nề, đầy đe doạ đã bao
trùm lên toàn miền Bắc, khiến người dân phải chìm đắm trong nỗi e sợ
mênh mông.
“Đào tận gốc, trốc tận rễ”
Thống kê
chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam
tập hai (Giai đoạn 1955-1975), do Đặng Phong thuộc Viện Kinh Tế Việt
Nam, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam chủ biên, Nhà xuất bản Khoa Học Xã
Hội Hà Nội xuất bản năm 2005, cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào
thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù
của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam, rồi con cái bị truy bức đến ba đời sau.
Con số này
có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế
được, vì nó từng được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản
chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết
án là Quốc Dân đảng thường thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số những
người bị kết án này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên trước khi
chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, “Đảng Cộng sản muôn năm!”.
Năm 1956
cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận
sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi cho áp
dụng một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính
thức cho biết, trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông
trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan.
Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu, tỷ lệ giữa số bị
oan và nạn nhân lại cao đến như thế!
Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói, “Không
thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là
địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những
nơi được phát động“.
Lời dặn “nhân ái”
Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng, “Nhục hình là lối dã man”. Ông còn khẳng định “tuyệt
đối không được dùng nhục hình. Nếu dùng nhục hình là trái chính sách
của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng”.
Căn cứ trên
thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn từng được ca ngợi là “nhân
ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ
ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai.
Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người
đã bao trùm toàn lãnh thổ miền Bắc.
Cũng xin
nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ
thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành
phố Hà Nội kể lại, “Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành
phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ
thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn
địa chủ thì không phải, đó là những người chống lại nhân dân, là kẻ địch
của nhân dân”.
Không chỉ
những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô
lập theo chính sách của đảng. Họ phải trực tiếp chịu những nhục nhằn
suốt đời không quên ; còn những người đã từng chứng kiến những cảnh
tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó thì cả mấy chục năm sau
vẫn còn kinh hoàng khi nhớ lại.
Ngay trong
đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956, mỗi khi nói đến các
cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất, cũng đều phải dùng hình dung
từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của “cuộc Cách mạng long trời lở đất Cải cách ruộng đất”.
Nhà văn
Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái
của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại, “Đối với tôi, lý
tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trước cổng
nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi
đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa
chủ. Sau lưng nhà tôi, đường tàu, cũng là xác một người tự tử chết bằng
cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi
tưới rau, tôi đã thấy những người chết đó, và điều đó làm cho tôi vô
cùng khủng khiếp”.
Và nhà văn
Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh
Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát
biểu, “Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì
tôi đã được chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia
đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái
chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp người ta,
mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ người ta, mà không có xét xử công
minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc
diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời
đó tôi đã chứng kiến.
Gia đình
nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào
nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư
được, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình
phải chịu trận, cho nên rất là khổ“.
Nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, kể, “Tôi
có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt
Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là
Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu
chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc được thả
về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà”. Ông cũng nhớ lại lời dặn dò của của bà cô và cuộc trao đổi thêm giữa hai cô cháu, “Cháu
ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân
lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì
bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy”.
Vết thương chưa lành
Cuộc cải
cách ruộng đất chấm dứt năm 1956 đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương
chưa lành đối với quá nhiều con người, dù có trực tiếp là chứng nhân
hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại
thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù hơn 50 năm đã qua đi,
thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những
chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.
Đó là lý do
khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một
loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của
một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.
Loạt bài do phóng viên Nguyễn An thực hiện sẽ gồm 6 chương (không kể chương dẫn nhập), theo thứ tự như sau:
Chương hai:
Nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng điểm lại tám đợt phát động quần chúng
giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949.
Chương ba: Lời kể của ông Nguyễn Minh Cần, người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.
Chương bốn: Lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, người từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân ;
Chương năm: Lời kể của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất (phần này do Việt Hùng thực hiện) ; sau đó là lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy.
Chương sáu: Lời kể của ông Nguyễn Văn Thủ, có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải Cách ruộng đất (phần này do Phương Anh thực hiện). Sau đó, lời kể của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan. Hữu Loan, là tác giả bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, vốn
là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách
ruộng đất, và người bạn đời của ông nguyên là con một gia đình bị kết án
địa chủ.
Chương bẩy: Diễn tiến việc Đảng Cộng Sản Việt Nam nhận sai lầm và sửa sai.
Chương tám: Tổng kết về cuộc Cải Cách ruộng đất. Thành quả và hậu quả
Ban Việt ngữ
đài Á Châu trân trọng cảm ơn các vị vừa nêu tên đã nhiệt thành cộng tác
và giúp đỡ chúng tôi trong cố gắng lật lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét