LÒNG HẬN THÙ TÔN GIÁO
Như
chúng tôi đã nói, năm 2010, Tiến Sĩ Cao Huy Thuần, một đệ tử của Thích Trí
Quang thuộc nhóm “Trá hàng VC để làm văn hóa, hoằng pháp...”, hiện đang
ở Pháp, đã được Việt Cộng mời về thuyết trình về kỷ niệm 1000 Thăng Long. Sau
khi được lên “dây cót”, Cao Huy Thuần đã tuyên bố huênh hoang với báo chí và
dùng phịa sử để xuyên tạc các biến cố đã xẩy ra tại miền Nam Việt Nam, mặc dầu
sử liệu đã công bố gần đầy đủ rồi.
Thật ra, các biến cố lịch sử tại miền Nam đã bị
Thiền sư Nhất Hạnh xuyên tạc một cách trắng trợn và đang phải trả giá, nay đến
lượt Cao Huy Thuần!
Trong các lời phát biểu với báo chí, Cao Huy
Thuần đã xuyên tạc nhiều sự kiện lịch sử với tất cả lòng thù hận. Tuần trước,
chúng tôi mới chỉ nói đến chuyện Cao Huy Thuần xuyên tạc biến cố trước đài phát
thanh Huế tối 8.5.1963. Chúng tôi đã đưa ra những bằng chứng pháp lý và lịch sử
để phản chứng, Cao Huy Thuần không thể chối cãi được. Hôm nay chúng tôi xin nói
những sự xuyên tạc của Cao Huy Thuần đối với Dụ số 10 được Quốc Trưởng Bảo Đại
ban hành ngày 6.8.1950 ấn định quy chế hiệp hội cho toàn quốc gia Việt Nam. Đây
là vấn đề đã được chúng tôi trình bày với Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Hòa Thượng
Thích Chơn Thành và ông Trần Gia Phụng, nhưng Cao Huy Thuần vẫn tiếp tục loạn
ngôn với ngụ ý Dụ này được chính quyền “bán thuộc địa” đưa ra để ưu đãi Thiên
Chúa Giáo! Chúng tôi thấy cần phải trình bày lại rõ ràng vấn đề này một cách
dứt khoát.
KHÔNG BIẾT GÌ LỊCH SỬ
Trong cuộc phỏng vấn của báo Thời Đại Mới ngày
30.4.2011, Cao Huy Thuần đã nói về Dụ số 10 ngày 6.8.1950 như sau:
“Buồn cười không thể tưởng tượng về cái Dụ số
10: Dụ này không xem Phật giáo như một tôn giáo mà
chỉ như một hiệp hội, ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển,
thể thao! Tôn giáo thì chỉ có một thôi, là Thiên chúa giáo vì Thiên chúa
giáo không nằm trong Dụ số 10...”
“Buồn cười ra nước mắt: đòi dẹp bỏ Dụ số 10 để
mình được làm tôn giáo như ai! Không nhận ra cái bất công khủng khiếp này thì
không hiểu được cái nhục mà tôi gọi là cái nhục gia tài, cái nhục không riêng gì của thế hệ lúc đó mà nhục cả cha
ông từ bao nhiêu thế hệ trước...”
Phóng viên báo Thời Đại Mới nói Dụ số 10 không
phải có từ thời ông Diệm mà đã có từ thời Bảo Đại. Ông Diệm chỉ thừa hưởng. Cao
Huy Thuần trả lời:
“Đúng vậy! Và chính vì vậy mà cái nhục của Phật
giáo được dân tộc san sẻ, trở thành cái nhục chung. Một đạo dụ, ban hành dưới
thời bán thuộc địa Liên Hiệp Pháp, xếp tôn giáo truyền thống của dân tộc vào loại vô tôn giáo, lại được một chính quyền mang tiếng là độc lập
trân trọng giữ y nguyên văn, áp dụng triệt để, như thể là con thừa tự! Độc lập
chỗ nào? Nhục cho cả nước. Dân chúng miền Nam bị tròng hai cái ách vào cổ: cái
ách độc tài chính trị và cái ách độc tài tôn giáo...”
Cao Huy Thuần có bằng Tiến Sĩ về khoa học chính
trị tại Đại học Picardie ở Pháp, nhưng qua bài phỏng vấn nói trên, chúng ta
thấy kiến thức của Cao Huy Thuần rất giới hạn, có lòng hận thù Thiên Chúa Giáo
điên cuồng, không hề nghiên cứu để nắm vững vấn đề mình muốn trình bày, nên đã
phát ngôn rất bừa bãi.
1.- Luật hiệp hội dưới thời phôi thai
Dưới thời phong kiến, Việt Nam không có quy chế
hiệp hội. Đến thời Pháp thuộc, quy chế hiệp hội bắt đầu hình thành, nhưng vì
đất nước lúc đó được chia thành ba Kỳ, nên rất phức tạp.
Ngày 26.3.1883 Pháp ban hành bộ “Dân luật
giản yếu” dựa hoàn toàn vào bộ Dân luật Pháp năm 1804. Năm 1931 Pháp ban
hành bộ “Dân luật Bắc” và từ 1936 đến 1938, bộ “Dân luật Trung”
(còn có tên là “Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật”). Hai bộ luật Bắc và Trung
đã phối hợp các nguyên tắc của Dân Luật Pháp với phong tục tập quán của Việt
Nam, trong đó có ấn định quy chế lập hội, nhưng rất sơ sài.
2.- Những trường hợp đặc biệt
Tại Nam Kỳ và các nhượng địa của Pháp, Luật về hiệp hội 1901 của Pháp được áp dụng. Đây là đạo luật vẫn còn áp dụng
tại Pháp cho đến nay.
Lúc đó, ở Việt Nam có hai hội có phạm vi hoạt
động toàn quốc là Trung Hoa Lý
Sự Hội và Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Etrangères de Paris). Vì
hoạt động của các bang hội người Hoa thường gây khó khăn cho việc quản lý, nên
với sự thỏa thuận của chính phủ Trung Hoa, ngày 27.12.1886 Pháp đã chính thức
ban hành quy chế bang hội cho người Hoa tại Việt Nam và đặt dưới sự kiểm soát
của Pháp. Sau đó Pháp cũng đã ban hành một quy chế riêng cho Hội Thừa Sai Hải
Ngoại Paris. Quy chế của hai hội này cũng dựa vào Luật về hiệp hội 1901 của
Pháp.
KHÁI NIỆM VỀ DỤ SỐ 10
Thỏa Ước Việt – Pháp được ký kết giữa Bảo Đại và
Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện Élysée ở Paris ngày 8.3.1949 và các
hiệp định thi hành thỏa ước này được Quốc Trưởng Bảo Đại và Cao Ủy Pháp Pignon
ký ngày 30.12.1949 tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, công nhận Chính Phủ Việt Nam có tổ
chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng. Về vấn
đề nội bộ, Chính Phủ Việt Nam có quyền “thi hành đầy đủ quyền nội bộ của chính
phủ ấy...”
Luật sư Trần Văn Tuyên kể lại, sau khi có Thỏa
Ước nói trên, chính phủ Nguyễn Phan Long được thiết lập do Sắc Lệnh số 6/QT
ngày 21.1.1950 của Quốc Trưởng Bảo Đại, đã quyết định biên soạn một quy chế
hiệp hội chung cho cả nước với mục đích đưa hoạt động của tất cả các đảng phái,
giáo phái, tôn giáo và hội đoàn vào khuôn khổ của luật pháp.
Công việc này chưa hoàn tất thì cuối tháng 4 năm
1950 chính phủ Nguyễn Phan Long bị giải tán. Chính phủ Trần Văn Hữu được thiết
lập do Sắc Lệnh số 37/CP ngày 6.5.1950 để thay thế chính phủ Nguyễn Phan Long.
Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã ra lệnh cho Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp phối hợp hoàn tất
quy chế hiệp hội.
Nội dung của dự luật này đã phỏng theo Luật về hiệp hội 1901 (Les associations loi 1901) của Pháp, chỉ sửa
đổi một số điều khoản cho phù hợp với tình hình Việt Nam mà thôi, vì Luật về
hiệp hội 1901 đã từng áp dụng tại Nam Kỳ và các nhượng địa với những hiệu quả
tốt.
Điều 1 của Luật về hiệp hội 1901 của Pháp quy
định như sau:
“L'association est la convention par laquelle
deux ou plusieurs personnes mettent en commun d'une façon permanente leurs
connaissances ou leur activité dans un but autre que de partager des bénéfices.
Elle est régie quant à sa validité, par les principes généraux du droit
applicable aux contrats et obligations.”
Điều 1 của Dụ số 10 ngày 6.8.1950 đã rập khuôn
theo điều 1 của Luật về hiệp hội 1901 của Pháp nói trên:
“Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa
thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không
phải là phân chia lợi tức, như
là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, thể thao và đồng
nghiệp ái hữu.
“Muốn có hiệu lực thì hội nào cũng phải hợp với
nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”
Khi dự luật được trình lên, Thủ Tướng Trần
Văn Hữu đã phê duyệt và gởi qua Pháp cho Bảo Đại ký, vì lúc đó Bảo Đại đang ở
Pháp. Bảo Đại đã ký tại Vichy ngày 6.8.1950 và được đăng trong Công Báo Việt
Nam số 33 ngày 19.8.1950.
TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
Điều thứ 44 của Dụ số 10 có quy định như sau:
“Chế độ đặc biệt cho
các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa Kiều Lý Sự Hội sẽ ấn định
sau.”
Tại sao điều khoản này được đưa vào cuối Dụ số
10? Phải chăng chính phủ Trần Văn Hữu muốn ưu đãi Thiên Chúa Giáo và Hoa Kiều
Lý Sự Hội? Không phải như vậy.
Khoan 1 của Thỏa Ước Việt – Pháp được ký kết
giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện Élysée ngày
8.3.1949 có quy định như sau:
“Sự cai trị các sắc dân không phải là người Việt
Nam... sẽ được cứu xét bằng quy chế riêng…. Các quy chế này phải được sự
thỏa thuận của Đại Diện Chính Phủ Cộng Hoà Pháp Quốc, vẫn còn có trách nhiệm
đối với họ.”
Như chúng tôi đã nói ở trên, Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam lúc đó đang đặt dưới quyền của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société
des Missions Étrangères de Paris) của Pháp và có một quy chế riêng do Pháp ấn
định.
Giữa Pháp và chính phủ Trung Hoa cũng đã chấp
thuận cho người Hoa có một chế độ riêng đặt dưới quyền quản lý của Pháp.
Căn cứ vào khoản 1 của Thỏa ước Élysée đã nói
trên, muốn ấn định quy chế của hai tổ chức này, Việt Nam phải tham khảo ý kiến
của Pháp trước khi quy định. Vì thế, điều 44 Dụ số 10 phải quy định như trên
chớ không phải vì muốn ưu đãi Thiên Chúa Giáo và các bang hội Hoa Kiều.
Như chúng tôi đã nói, hai quy chế đã được áp
dụng cho Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris và các Hoa Kiều Lý Sự Hội cũng là các
nguyên tắc ấn định trong Luật về hiệp hội 1901 của Pháp, tức giống Dụ số
10 chứ chẳng có gì đặc biệt.
LÒNG THÙ HẬN TÔN GIÁO
Một câu hỏi được đặt ra là các nhà tranh đấu của
Phật Giáo năm 1963, khi đọc điều 44 của Dụ số 10, họ có biết tại sao điều 44 đã
quy định như vậy không?
Nhiều người tin rằng họ biết, vì điều 44 không
chỉ nói đến một quy chế đặc biệt cho Thiên Chúa Giáo mà còn cho cả Hoa Kiều Lý
Sự Hội nữa.
Từ năm 1960, khi chưa có vụ Phật Giáo, trong một
bài đăng trên nguyệt san Quê Hương, ông Vũ Quốc Thông, Giáo Sư Đại Học Luật
Khoa Sài Gòn, đã giải thích rằng việc quy định những vấn đề liên quan đến chính
sách ngoại giao hay các luật lệ liên quan đến người Pháp và ngoại kiều sinh
sống tại Việt Nam, đều phải có sự đồng ý của Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, chính
phủ Việt Nam mới được ban hành. Do đó, muốn ban hành các quy chế về các hội
truyền giáo của Thiên Chúa Giáo và các hội của Hoa Kiều đang hoạt động tại Việt
Nam như Société des Missions Étrangères de Paris, Protestant Mission, Chinese
Congrégations, v.v..., đều phải có sự đồng ý của Pháp mới ban hành được.
[Vũ Quốc Thông, “Việt Nam Tự Do, Chính Thể Cộng
Hòa Nhân Vị”, nguyệt san Quê Hương số 16, ngày 16.10.1960, tr. 1 - 39 và 247 –
262].
Giả thiết các nhà tranh đấu Phật Giáo không biết
những quy định pháp lý nói trên đi nữa và muốn phân bì thì họ phải phân bì vừa
với Hoa Kiều Lý Sự Hội vừa với Thiên Chúa Giáo, tại sao họ chỉ phân bì với
Thiên Chúa Giáo? Câu trả lời có thể rất giản dị như sau:
Tại vì các nhà lãnh đạo đấu tranh Phật Giáo muốn
MƯỢN LÒNG HẬN THÙ THIÊN CHÚA GIÁO LÀM ĐỘNG
LỰC KÍCH ĐỘNG ĐẤU TRANH nên họ
chỉ chụp lấy chữ “Thiên
Chúa Giáo” trong điều 44 và
bỏ qua một bên Hoa Kiều Lý Sự Hội. Họ biết dân chúng chẳng ai đọc Dụ số 10 và
khi họ tuyên bố Dụ số 10 ưu đãi Thiên Chúa Giáo là đa số các Phật tử tin ngay.
Đây là một trò TRÍ TRÁ mà thuật ngữ Phật Giáo gọi là VỌNG NGỮ.
Chiến thuật mượn lòng hận thù Thiên Chúa Giáo
làm động lực kích động đấu tranh là chiến thuật đã được các nhà lãnh đạo đấu
tranh Phật Giáo xử dụng trong suốt cuộc chiến Việt Nam và kéo dài cho đến ngày
nay. Toàn bài phát biểu của Cao Huy Thuần với báo Thời Đại Mới mà chúng tôi
đang bàn đến có thể được coi là biểu tượng rõ nét nhất của sự kích động lòng
hận thù tôn giáo. Nhiều người tin rằng chiến thuật này chắc chắn sẽ được tái áp
dụng hậu cộng sản, khi các nhóm Phật Giáo quá khích muốn tạo bạo loạn để cướp
chính quyền. Nhưng đây là một chiến thuật sai lầm, vì khi áp dụng chiến thuật
này, các nhà đấu tranh Phật Giáo đã phải đối phó cùng một lúc vừa với chính
quyền vừa với Thiên Chúa Giáo, thất bại là chuyện đương nhiên.
ĐÀNH CHẤP NHẬN “CÁI NHỤC
GIA TÀI”
Các nhà Phật Giáo đấu tranh và Hòa Thượng Quảng
Độ đã cho rằng “Dụ số 10 tồn
tại từ thời thực dân Pháp xem Phật giáo như một hội đoàn, với nhiều kỳ
thị, ức chế dưới thời đệ nhất Cộng hoà.” Nay Cao Huy Thuần cũng chỉ lặp lại luận điệu đó và cho
rằng Dụ số 10 không xem Phật giáo như một tôn giáo mà chỉ như một hiệp hội,
ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao! Ông coi đó
là “cái nhục” mà ông gọi là “CÁI NHỤC GIA TÀI”.
Phật giáo có đến 84.000 pháp môn (vô lượng
pháp), ai tu theo pháp môn nào cũng được, nên trên thế giới không có Giáo Hội
Phật Giáo thống lãnh toàn thể các tăng sĩ và tín đồ. Ở Việt Nam, vì nhu cầu
thống lãnh Phật Giáo để tạo sức mạnh cướp chính quyền, Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất mới được hình thành. Đó là một tổ chức chính trị hơn là một tổ chức
tôn giáo.
Thật ra, Giáo Hội cũng chỉ là một hiệp hội, nhưng người Thiên Chúa Giáo gọi là Giáo Hội (Ecclesia, Église, Church) vì đó là chữ được dùng trong
Thánh Kinh (Mat. 16,19). Năm 1964, khi 11 tổ chức Phật Giáo Việt Nam quyết định
thành lập một tổ chức Phật Giáo Việt Nam thống nhất, họ cũng dùng chữ Giáo Hội
(Church). Vậy chữ Church đó lấy từ đâu ra? Không lẽ lấy từ Thánh Kinh?
Dù coi hiệp hội là một “CÁI NHỤC GIA TÀI”, nhưng
khi đến Mỹ, Pháp và các nước trên thế giới, các tổ chức Phật Giáo Việt Nam đều
“thi đua” nạp đơn xin gia nhập các quy chế hiệp hội tại các nước này để được
hưởng những quyền lợi được luật pháp ban cho, ở Mỹ có quy chế hiệp hội bất vụ
lợi (nonprofit organization) còn ở Pháp có Luật về hiệp hội 1901 (gióng Dụ số
10 của VNCH).
Luật thuế vụ liên bang của Mỹ [Federal 501(c) (3)
Status] đã định danh năm thứ hiệp hội bất vụ lợi có thể được miễn thuế, đó là các hiệp hội có mục đích bác ái, các tổ chức
khoa học (scientific
organizations), các tổ chức
giáo dục (educational
organizations), các hiệp hội
có mục đích văn học, và các nhóm tôn giáo (religious groups).
Vậy khi các chùa và các tổ chức Phật Giáo ở hải
ngoại xin được hưởng các quy chế này "ngang hàng với các hiệp hội từ
thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao..." là họ đã chấp nhận một “CÁI
NHỤC GIA TÀI”?
TÁC HẠI CỦA “QUY CHẾ ĐẶC
BIỆT”
Năm 1964, theo yêu sách rất gay cấn của nhóm
Phật Giáo đấu tranh, Tướng Nguyễn Khánh đã ban hành Sắc Luật số 158-SL/CP ngày
14.5.1964 công nhận Hiến Chương ngày 4.1.1964 của GHPGVNTN, cho phép Giáo
Hội này được hoạt động theo một “chế
độ đặc biệt” nằm trên và ngoài
luật pháp quốc gia. Hiến Chương của Giáo Hội coi là tài sản của GHPGVNTN tất cả
các quốc tự, các ngôi chùa làng, các ngôi tổ đình, các ngôi chùa xây dựng bởi
các vị Tăng sĩ và các hội đoàn Phật giáo cũ, v.v.
Sự thống lãnh quyền lực và tước đoạt tài sản này
đã đưa tới sự chống đối mạnh liệt của các hội đoàn và tông phái Phật giáo. Một
cuộc chiến tranh đẩm máu đã xẩy ra. GHPGVNTN đã bị bể ra làm hai: Giáo Hội Ấn
Quang và Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự. Ngày 18.7.1967, Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu
đã ban hành Sắc Luật số 23/67 hủy bỏ Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 và
công nhận Hiến Chương mới của Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự. Kể từ đó, Giáo Hội
Ấn Quang hoạt động ngoài vòng pháp luật và cho đến nay đã bể thành 8! Trong khi đó, Dụ số 10 vẫn được áp dụng đến
ngày 30.4.1975 và vẫn được đa số các đoàn thể của người Việt hải ngoại trân
trọng: Khi xin phép lập hội thì họ làm theo luật Mỹ, nhưng khi làm Nội Quy họ
vẫn mô phỏng theo các nguyên tắc của Dụ số 10.
Trên đây là hậu quả tai hại của một “chế
độ đặc biệt” mà nhóm Phật Giáo đấu tranh đã đòi hỏi bằng mọi giá.
Cao Huy Thuần đã từng viết: “Tìm cách phục hồi sự thật lịch sử... để không
phạm lại những lỗi lầm cũ.” Bây
giờ chúng tôi đã phục hồi lại sự thật lịch sử, Cao Huy Thuần sẽ tính sao?
Chúng tôi sẽ đề cập tiếp vần đề “Phật giáo từng bị chụp mũ “thân Mỹ”, “thân
Cộng” mà Cao Huy Thuần đang la
làng.
(Trích:
“Lòng Hận Thù Tôn Giáo” của Lữ Giang)
Lòng thù hận Thiên Chúa Giáo
Như chúng tôi đã nói nhiều
lần, theo báo cáo của CIA, chủ trương của nhóm Phật Giáo đấu tranh là tiến tới
thành lập một chính quyền Phật Giáo do giáo quyền lãnh đạo (theocracy).
Cuộc đấu tranh đã lên đến cao điểm vào năm 1966, khi Phật Giáo cướp chính quyền
thất bại ở Đà Nẵng và Huế. Người chủ trương và lãnh đạo cuộc đấu tranh cướp
chính quyền là Thích Trí Quang và lý thuyết gia về Phật giáo là “đạo dân tộc” và
Phật giáo phải nắm chính quyền là Lê Mạnh Thát.
Khi đấu tranh, các tăng sĩ lãnh đạo đã dùng lòng
hận thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ làm động lực. Tuy nhiên, sau khi thất bại,
nhóm Phật Giáo đấu tranh vẫn tiếp tục xử dụng lòng hận thù Thiên Chúa giáo và
vọng ngữ để chạy tội, biện minh cho những sai lầm nghiêm trọng của mình. Lòng thù hận Thiên Chúa
giáo và vọng ngữ đã trở thành “con
đường giải thoát” của Phật Giáo đấu tranh!
LÒNG HẬN THÙ BIỂU TƯỢNG
SỰ TUYỆT VỌNG
Sách báo được viết để kích động lòng hận thù
Thiên Chúa Giáo từ 1963 đến nay khó mà đếm hết được. Vào các nhà sách trong và
ngoài nước đều thấy tràn ngập. Hiện nay trên Internet, có hai websites đã chính
thức xử
dụng lòng hận thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ như “con đường giải thoát”
của Phật Giáo, đó là sachhiem.net và chuyenluan.org. Hầu hết các websites của Phật Giáo đều có tham
gia vào trận chiến này. Hàng ngày, số bài chống Thiên Chúa Giáo được chuyển đi
trên các diễn đàn Internet Việt ngữ không phải chỉ hàng chục mà có lúc đến hàng
trăm lần: Công Giáo hắc sử, Tội ác của Công Giáo La Mã, Phải tiêu diệt Thiên
Chúa Giáo, Nói về 7 núi tội ác của Công Giáo, Sự thật về Tội ác Nhân Loại của
Đạo Công Giáo và tội ác Diệt Chủng Nhân loại của Tòa Thánh VATICAN, Công Giáo
La Mã là một đặc sản văn hóa phi nhân tính, v.v. Dĩ nhiên, đó chỉ là tiếng chó sủa trăng, chẳng làm rụng được sợi chân lông của ai,
nhưng nó biểu tượng cho sự
tuyệt vọng của những kẻ bị dồn vào đường cùng.
CHỈ LÀ NHỔ RA LIẾM LẠI!
Phương pháp thông dụng được nhóm Phật giáo đấu
tranh xử dụng là “nhổ
ra liếm lại” và
coi đó là “bằng chứng lịch sử”! Chúng đã biến wikipedia.org thành một công cụ, đưa lên những bài xuyên tạc
lịch sử rồi trích dẫn lại và coi đó là tài liệu lịch sử đáng tin cậy! Chúng tôi
đã đưa một thí dụ cụ thể:
Đọc bài nói về Ngô Đình Diệm trên wikiprdia.org, chỉ vài hàng đầu đã thấy sai bét rồi. Nhiều
người tin người viết thuộc nhóm Giao Điểm hay Ấn Quang. Tác giả viết: “Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901
tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình trong một gia đình quan lại có
truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở Việt Nam.”
[xem: Ngô Đình Diệm – Wikipedia tiếng Việt ]
Có người thấy bài viết bậy quá đã vào thử sửa
lại một đoạn đầu xem sao: “Ngô Đình Diệm sinh ngày 3.1.1901 tại làng Phước
Quả, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên...”
Nhưng một tuần sau mở ra xem lại, bọn lưu manh
đã sửa lại như cũ! Chúng vừa lưu manh vừa dốt! Ông Ngô Đình Khả sinh tại Quảng
Bình, còn anh em ông Diệm đều sinh ở Huế (còn sổ rửa tội).
Những phịa sử của Đỗ Mậu, Cửu Long Lê Trọng Văn (tức Lê Văn Thông, cán bộ ở Lào), Chu Bằng Lĩnh (Mạc Thu, tên thật là Lưu Đức Sinh, ghiền thuốc phiện)... được coi như là “kinh nhật tụng” của Phật Giáo đấu tranh, cứ đem ra tụng đi
tụng lại hết ngày này qua ngày khác trên các diễn đàn.
Không phải chỉ “bọn lau nhau” tích cực phát động
chiến dịch này, mà một số cao tăng cũng đã đứng ra lãnh đạo. Người hung hăng
nhất là Thích Trí Quang. Từ 1963 đến nay, ông đã liên tục dùng “hồi ký” để phổ
biến phịa sử chống Thiên Chúa Giáo. Trước tiên là cuốn “Tiểu truyện tự ghi”. Chúng tôi biết rất rõ quê quán, gia đình và bổn
sư của ông, thế mà ông tưởng không ai biết, cứ “múa gậy vườn hoang”. Tập “Từ Rạch Cát tới Tòa Đại Sứ Mỹ” được ông viết gióng truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, còn ông là
Tôn Ngộ Không! Bị chúng tôi lật tẩy, năm 2011 ông viết lại với một văn phong ôn
hòa hơn, lấy tên là “Trí Quang Tự Truyện” được Nhà xuất bản Tổng Hợp ở Sài Gòn ấn hành. Cuốn này được viết
và trình bày chuyên nghiệp hơn, có lẽ có người giúp, nhưng lại mâu thuẫn với
nhiều điều ông nói trong các cuốn trước và phịa sử vẫn còn nhiều (chúng tôi
sẽ nói sau), vì thế có người cho rằng “Trí Quang đã tự lột mặt nạ của
chính mình”! Ông vẫn còn nói lẩm cẩm về Dụ số 10, một văn kiện mà ông chẳng
hiểu gì hết. Ông loạn ngôn: “Rõ ràng, Dụ số 10 cho Thiên Chúa Giáo là
độc tôn, là “tôn giáo”, cho các tôn giáo khác, kể cả Phật Giáo, chỉ là tín ngưỡng
lặt vặt. Vậy mà Dụ nầy, thủ tướng Diệm mới cầm quyền, đã ban hành tục Dụ duy
trì, ‘ký thay Quốc trưởng’.” Thật ra Dụ số 10 được Bảo Đại
ban hành từ năm 1950 vẫn tồn tại đến 30.4.1975, ông Diệm và các chính phủ tiếp theo không hề ban hành một văn
kiện nào để duy trì hay hủy bỏ Dụ số 10, vì nội dung của Dụ
này không khác gì Luật về hiệp hội 1901 (Association loi 1901) của Pháp đã được
ban hành ở Việt Nam trước đó và còn tồn tại ở Pháp đến ngày
nay. Nhưng ông có trình độ văn hóa khá thấp, thấp nhất trong các tăng sĩ
lãnh đạo Ấn Quang, nên nói chuyện pháp lý với ông rất khó. Ông vẫn ôm chặt lòng
thù hận Thiên Chúa Giáo!
ĐIỆP VIÊN HAI MANG?
Hôm nay chúng tôi nói đến một nhân vật quan
trọng khác đối với cuộc chính biến 1963, đó là Thích Đức Nghiệp. Chúng tôi gọi ông là một nhân vật quan trọng
vì ông và Trần Quang Thuận đã được CIA xử dụng để tổ chức vụ thiêu Thích Quảng
Đức, khởi đầu cho kế hoạch lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Tài liệu cho biết William Kohlmann, một nhân
viên tình báo Mỹ đang làm việc ở Anh quen biết với Trần Quang Thuận đã được
điều động qua Sài Gòn để hướng dẫn Trần Quang Thuận và Đại Đức Thích Đức Nghiệp
thực hiện vụ thiêu Thích Quảng Đức. Lúc Đó Đại Đức Thích Đức Nghiệp đang là
giáo sư Anh ngữ tại trường Vạn Thắng. Ông đã từng làm thông dịch viên cho Mỹ từ
cuộc di cư 1954. Thích Quảng Độ làm thông dịch viên cho USIS.
Bill Kohlmann kể lại rằng ban tổ chức định dùng
xăng để thiêu Thầy Quảng Đức, nhưng được cho ý kiến là xăng sẽ cháy rất nhanh,
không đủ thời gian để chụp hình và làm các nghi thức trước khi lửa tắt, và thời
gian cháy chưa đủ để làm Thầy Quảng Đức tắt thở, do đó phải đổ thêm Diesel vào
cho cháy chậm lại. Thích Đức Nghiệp có nhiệm vụ liên lạc với ký giả Malcolm
Browne của AP, một nhân viên CIA khác, có nhiệm vụ báo tin cho các ký giả đến
đúng lúc để quay phim, chụp hình và gởi đi khắp thế giới. Ba mươi vụ tự thiêu
tiếp theo không có CIA dính vào, đã trở thành con số không!
Trong vụ này, Trần Quang Thuận đã phạm một lỗi
lầm rất lớn là dùng chiếc xe Austin mang số DBA 599 của ông già vợ là Tôn Thất
Hối, chở Thích Quảng Đức đến hiện trường nên cơ quan tình báo của ông Diệm phát
hiện ra đường dây tổ chức. Trần Quang Thuận bị CIA sa thải ngay vì lý do “làm
gián điệp cho Pháp”. William Kohlmann nói ông ta đã biện hộ cho Thuận nhưng CIA
cứ sa thải. Vì hồ sơ này, khi Trần Quang Thuận qua Mỹ xin vào làm cho sở xã hội
đã bị từ chối.
Lý lịch của Thích Đức Nghiệp vẫn được giấu kín. Thích
Quảng Độ sinh năm 1928. Thích Đức Nghiệp đồng tuổi hay chỉ nhỏ hơn Thích Quảng
Độ một hai tuổi. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông được Mỹ cho đi học
tại Đại Học Yale ở Connecticut và được cấp bằng tiến sĩ triết học. Nhưng ông
hiện là Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh GHPG Nhà Nước và làm mưa làm gió ở chùa Giác Minh. Nhiều bài
trong nước tố ông là tay sai của Giáo Hội quốc doanh và coi ông là một thành
phần hai mang, vừa làm tay sai cho Mỹ vừa làm tay sai cho Cộng Sản.
ĐỈNH CAO CỦA LÒNG HẬN THÙ
VÀ VỌNG NGỮ
Thích Đức Nghiệp có viết cuốn “Đạo Phật Việt Nam” được Thành Hội Phật Giáo Sài Gòn xuất bản năm
1995, trong đó có rất nhiều phịa sử. Hôm nay chúng tôi chỉ trích một đoạn ông
nói về nguyên nhân đưa đến biến cố tối 8.5.1963 trước đài phát thanh Huế, để
đọc giả thấy ông phịa tài tình không thua gì Đặng Văn Nhâm viết cuốn “Giặc
thầy chùa”. Ở trang 192 ông viết:
«Xuyên qua những dữ kiện lịch sử, việc cố tình kỳ thị tôn giáo
của chế độ ông Diệm đã tiềm phục từ lâu, cụ thể từ 1957 tới 1963 qua những bản
phúc trình của Phật giáo Trung Việt. Ðặc
biệt vào lễ khánh thành nhà thờ Ðức Mẹ La Vang tại Quảng Trị, trùng hợp với đại
lễ Phật Ðản hằng năm, từ ngày 8-4 đến 15-4 âm lịch trên toàn quốc. Vào dịp lễ khánh thành
này, ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô Ðình Thục cùng đi dự lễ. Trên
đường tới nhà thờ tại Quảng Trị, phải đi qua thành phố Huế, thấy trang hoàng cổng chào và cờ Phật giáo rợp
trời, ông Diệm mới hỏi người tùy tùng và được trả lời: "Ðây là cờ Phật
giáo. » Do đó, ông Diệm liền hạ lệnh cho Quách Tòng Ðức, Ðổng lý văn phòng phủ
Tổng thống, cùng đi theo: "Hãy gửi gấp công điện, khắp nơi phải hạ cờ Phật
giáo xuống!". Ðó là nguyên nhân chính xảy ra cuộc tranh đấu Phật giáo
chống chính quyền ông Diệm vào mùa Phật Ðản năm 1963.»
(Thích Đức Nghiệp, “Đạo Phật Việt Nam”, Thành hội Phật
Giáo TP Hồ Chí Minh, 1995, tr. 192.)
Đây là một sự bịa đặt quá trắng trợn! Hàng năm
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đều làm lễ «khánh thành» nhà thờ Đức Mẹ La Vang? Chẳng ai tin được
chuyện này.
Đền thờ Đức Mẹ La Vang do Linh Mục René
Toussaint Morineau khởi xây từ năm 1924 và khánh thành ngày 22.8.1928. Năm 1901, Đức Giám mục Gaspar Lộc quyết định
tổ chức 3 ngày lễ thánh hiến Ðền Thánh La Vang và cuộc cung nghinh tượng Ðức Mẹ
La Vang từ 6 đến 8.8.1901. Giáo dân giáo phận Huế thuộc ba tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên đã tham dự rất đông đảo. Từ đó, Đại Hội Thánh Mẫu La
Vang được tổ chức 3 năm một lần vào giữa tháng 8, tức vào dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời vào ngày 15 tháng 8. Lễ này không hề trùng với lễ Phật Đản như Thích Đức
Nghiệp đã nói, vì trước 1963 lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày 4 tháng tư âm
lịch, sau đó đổi lại ngày 15 tháng 4, tức trước Đại Hội Thánh Mẫu La Vang
khoảng 2 tháng.
Đại Hội LangVang lần thứ 14 được tổ chức năm
1958, lần thứ 15 năm 1961 và lần thứ 16 năm 1964. Năm 1963 không có Đại Hội La Vang và cũng không có chuyện «ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô
Ðình Thục cùng đi dự lễ» ở La Vang năm này.
Do lời thỉnh cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
ngày 22.8.1960 Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã long trọng ban sắc chỉ nâng đền
thờ La Vang lên bậc Vương Cung Thánh Ðường dâng kính Ðức Mẹ La Vang. HĐGMVN họp
tại Huế ngày 13.4.1961 đã quyết định chọn đền thờ Ðức Mẹ Lavang làm "Ðền Thờ toàn quốc dâng kính Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Ðức Mẹ", và
nhận linh địa Lavang làm "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc". Do
đó, Đại Hội Thành Mẫu La Vang năm 1961 được tổ chức rất trọng thể, có 10 vị Giám mục, 300
Linh mục, gần 1000 tu sĩ nam nữ và khoảng 300.000 giáo dân đến dự. Nhân dịp này, hai phái đoàn cao cấp của chính phủ VNCH cũng có mặt, một do Tổng Thống Ngô Đình Diệm dẫn đầu đến La
Vang ngày 16.8.1961 và một do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ đến ngày La Vang
ngày 21. Tướng Perakiraly của Hungari cũng tham dự.
Hòa Thượng Đức Nghiệp đã lấy biến cố 1961 ghép
vào năm 1963 và coi đó là nguyên nhân đưa tới biến cố tối 8.5.1963 tại đài phát
thanh Huế. Vọng ngữ như thế, thật
khó tưởng tượng nổi!
Một người đậu tiến sĩ triết học ở Đại Học Yale,
Hoa Kỳ, không thể viết một sự kiện lịch sử sai lầm nghiêm trọng như vậy. Nhưng
ông đã bịa đặt ra những chuyện nói trên với hai mục tiêu: Mục tiêu thứ nhất là
kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo làm động lực đấu tranh, và mục tiêu thứ
hai là biện minh cho những sai lầm của Giáo Hội Ấn Quang, vì những tham vọng
chính trị hão huyền, đã bị Mỹ rồi Cộng Sản
biến thành công cụ, xài xong rồi đập bể ra từng mảnh!
Trong bài "Buddhism and Politics”,
Hòa Thượng Sri Dhammananda có nhận
định như sau:
“Khi tôn giáo bị sử
dụng để thỏa mãn các ý đồ chính trị thì tôn giáo sẽ phải hy sinh các lý tưởng
đạo đức cao quí của mình và trở nên bị hạ thấp giá trị do những nhu cầu chính
trị trần tục.”
(When religion is used to pander to political
whims, it has to forego its high moral ideals and become debased by worldly
political demands.)
(Trích: “Lòng Hận Thù Thiên Chúa Giáo” của
Lữ
Giang)
CHUYỆN KẺ PHẢN BỘI.
1.- Làm tay
sai cho CIA gây thảm họa hoạ
cho đất nước.
a) Sự thật đã rõ ràng
Trong cuộc
phỏng vấn được phổ biến trên đài BBC ngày 31.10.2009, Hồ Quang Phương, nạn nhân
của tệ trạng bạo hành của Cảnh Sát Mỹ ở San José, đã phát biểu như sau:
“Khi vụ
đó xẩy ra mà không có băng video, không có gì chứng minh là mình đúng, có thể bị
xử có tội. Bây giờ có băng video rồi,
công lý đứng về phía mình.”
Trong
vụ đảo chánh và giết ông Diệm cũng vậy.
Trong một cuốn
băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố
ngày 28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Lyndon B. Johnson đã nói
chuyện bằng điện thoại với Thượng Nghị Sĩ Eugene McCathy như sau:
Johnson:
- ... Nhưng
ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.
MacCarthy:
- Có chứ.
Johnson:
- (Rằng)
ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất
cả chúng ta đã họp lại với nhau VÀ XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát
ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự ổn định
chính trị (ở Miền Nam Việt Nam) từ lúc đó.”
Khi cuốn
băng này chưa được công bố, một số viên chức Mỹ có trách nhiệm và một số sử gia
cố gắng cãi chày cãi cối để kết luận rằng vụ đảo chánh năm 1963 là do một nhóm
sĩ quan VNCH thực hiện, người Mỹ không hề nhúng tay vào. Còn các Tướng Tá Việt
Nam làm đảo chánh tự tôn là “nhà cách mạng” và ngày 1.11.1963 được biến
thành Ngày Quốc Khánh. Nhưng khi cuốn băng nói trên được công
bố, lịch sử đã được làm sáng tỏ.
b) Tên chỉ đạo hống hách
Trưa ngày đảo
chánh 1.11.1963, Lucien Conein, người được nói là có nhiệm vụ theo dõi cuộc đảo
chánh nhưng thật sự là người chỉ đạo cuộc đảo chánh, đã đến Bộ Tổng Tham Mưu
VNCH mang theo một cái túi đựng 3 triệu đồng Việt Nam (42.000 USD) mà
ông đã rút ra trước từ ngân khoản của Trạm CIA. Ngoài số tiền này, Lucien
Conein còn mang một khẩu súng lục, một cái radio đặc biệt để thông báo tin tức
về cuộc đảo chánh cho Trạm CIA và các viên chức CIA khác nằm trong mạng lưới của
ông ta.
Lucien Conein
đã tự ý leo lên ngồi ở ghế bành của của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng
VNCH, gác chân lên bàn, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là hai xách
tay bạc Việt Nam...
(Hoàng Lạc
và Hà Mai Việt, “Việt Nam năm 1954 – 1975, những sự thật chưa hề nhắc tới”, tr.
247).
Tướng Trần
Văn Đôn cho biết, khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi dinh Gia Long,
Lucien Conein đã nói một cách hống hách:
- Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được vì rất
quan trọng.
Ông ta nói bằng
tiếng Pháp:
- On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.”
(Người ta
không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng).
(Trần Văn
Đôn, Việt Nam nhân chứng, tr. 228)
Tên “thủ trưởng”
này quả thật quá hống hách!
c) Phản bội tổ quốc
Nhà cầm quyền
Mỹ ra lệnh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm để có thể đổ quân vào miền
Nam. Họ hành động như vậy vì quyền lợi của nước Mỹ. Còn nhóm sĩ quan VNCH nhận
chỉ thị và tiền của Mỹ làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
đưa VNCH vào những ngày đen tối và sau đó làm mất miền Nam Việt Nam, họ chỉ là
những tên lính đánh thuê không hơn không kém. Họ không hành động vì quyền lợi của
tổ quốc.
Trong
trường hợp này, tội của những kẻ làm lính đánh thuê chắc chắn nặng hơn tội của
kẻ chủ mưu, vì họ đã phản bội tồ quốc.
2.- Hiệp định Paris: Bán đứng VNCH
Một số
người cho rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là người có công khi buộc Hoa Kỳ và
Việt Cộng phải thay đổi một số điều khoản có hại cho VNCH trong dự thảo hiệp định
Paris. Nhưng nói như thế là hoàn toàn sai lầm.
Ngày
18.10.1972 Kissinger đã đến Saigon để làm áp lực buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
phải đồng ý nội dung bản dự thảo hiệp định Paris với hy vọng sẽ mang bản dự thảo
đó ra Hà Nội ngày 24.10.1972 để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký tắt vào. Nhưng
Kissinger đã thất bại. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp
và Bộ Dân Vận - Chiêu Hồi đã phát hiện ra đến 23 điểm cần
phải điều chỉnh. Kissinger chỉ đồng ý điều chỉnh 16 điểm không quan trọng mà thôi. Số
còn lại phải để nguyên, trong đó có điều khoản quan trọng nhất là chỉ buộc Mỹ rút khỏi miền Nam chứ không buộc quân đội
Bắc Việt.
Chúng
ta nhớ lại, khi Hội Nghị Genève 1954 sắp kết thúc, thừa lệnh của Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm, ngày 19.7.1954 Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố tại Genève rằng
chính phủ quốc gia Việt Nam không chấp nhận chia cắt Việt Nam và yêu cầu đặt Việt
Nam dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã cương
quyết không ký tên vào hiệp định này.
Ngày
21.7.1954 khi đại diện Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia cắt đất nước
làm đôi, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ và đọc một bài diễn văn chống
lại sự bất công của Hiệp Định này đã trao cả miền Bắc cho Cộng Sản và thêm 4 tỉnh
miền Trung. Thủ Tướng nói: “Chúng tôi không thể đặt vào vòng nô lệ hàng triệu đồng bào trung thành với
chủ nghĩa quốc gia...”
Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không hành động như vậy. Ông thừa biết Bắc
Việt cố giữ lại điều khoản không rút quân trong hiệp định Paris là để khi Hoa Kỳ
rút hết, họ sẽ mở cuộc tấn công trở lại, nhưng bị ám ảnh bởi cái chết của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm khi Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam mà ông là một trong những
thủ phạm, Tổng Thống Thiệu đã tự trấn an bằng những lời cam kết của Tổng
Thống Nixon mà Tướng Haig mới chuyển đến, đã ra lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn
Lắm ký tên vào Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973. Trong trường hợp nầy, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã đặt sinh mạng và địa vị của mình lên trên quyền lợi quốc
gia. Đây là lỗi lầm trọng đại căn bản dẫn tới mất miền Nam.
CẦN LÀM SÁNG TỎ LỊCH SỬ
Trong
thời chính phủ Ngô Đình Diệm, tôi còn là sinh viên nên không đính líu gì đến chế
độ này, nhưng ít ra tôi cũng được chứng kiến tận mắt nhiều biến cố đã xẩy ra.
Tôi cảm thấy kinh hoàng khi khảo cứu hồ sơ vụ án Ngô Đình Cẩn và vụ án Đặng Sỹ.
Sau này tôi cảm nhận rằng lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson dành cho những
kẻ tay sai của CIA không có gì quá đáng.
Khi ra hải
ngoại, tôi lại cảm thấy kinh hoàng hơn khi đọc các cuốn phịa sử không phải chỉ
của Đỗ Mậu hay Lê Trọng Văn mà cả của Thiền Sư Nhất Hạnh! Tôi không thể ngờ được
người ta đã cố tình viết lịch sử một cách bố láo bố lếu như vậy.
Tôi bắt đầu
đọc lại bản phúc trình của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc về vụ Phật Giáo,
các tài liệu chính thức được giải mật trong các bộ Foreign Relations of the
United States liên quan đến vấn đề Việt Nam của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố,
v.v., tôi quyết định phải đem lại sự thật cho lịch sử. Bài “Kẻ phản bội”
cũng nằm trong loạt bài đó.
(Trích: “Chuyện Kẻ Phản
Bội” của Lữ Giang)
Sau cuộc cách mạng Bolshevik ngày 17 tháng Mười năm
1917 tại Nga thành công, đưa Cộng Sản lên nắm chính quyền; ông Vladimir Lenin
gọi bọn người chạy theo liếm gót Cộng Sản để tâng bốc là “polezniye duraki”, tiếng
Anh gọi là “useful idiots” (những thứ người ngu xuẩn nhưng có ích cho Cộng Sản).
Tại Việt Nam bọn “polezniye duraki” quả thực chỉ
mong được ngoại bang hay Cộng Sản ban cho “bơ thừa, canh cặn”, vì thế bọn chúng
quay ra tiếp tay chống đối và đạp đổ tất cả những cái tử tế, tốt đẹp của xã hội
đang cưu mang và thi ân cho chúng. Tưởng rằng, bọn “useful idiots” này sẽ tỉnh
ngộ sau khi cái mặt nạ Cộng Sản thực sự rơi xuống, nhất là bọn tài phiệt buôn bán
chiến tranh trên xương máu người Việt, họ dùng bọn người này như: cây mã tấu,
khẩu Rouleau, khẩu Thompson, khẩu Aka. v.v. được tẩm thuốc độc dưới lớp áo màu
vàng hay màu nâu, rồi khi xong việc, bọn chúng liền bị bọn tài phiệt buôn chiến
tranh quang vào đống rác, thì bọn chúng phải tỉnh ngộ chứ! Ai ngờ bọn ngu xuẩn
này vẫn tiếp tục u muội mãi. Thế rồi, những tên ngu xuẩn đó từ từ chết dần, người
ta hy vọng bọn đàn em của bọn chúng sẽ tỉnh ngộ tránh được những vết xe đổ vỡ trước
đây. Nhưng than ôi! Vậy bọn ngưới này là loại người ăn cái gì nhỉ?
Thế rồi đã nửa thế kỷ năm trôi qua, và nhất là giáo lý của nhà Phật mà Đức Thế Tôn luôn dạy các Phật tử và chúng sanh:
từ bi, hỷ xả, để đạt đến chân, thiện, mỹ. Đức Phật thường khuyên bảo đệ tử của ngài
rằng: “Hận thù không nên giữ
trong đầu quá một đêm”. Phật cũng dạy “Lấy ân báo oán, oán tiêu tan, lấy thù
báo oán,oán chập chồng như núi Thái Sơn… không đời kiếp nào hết…”
Thế mà không hiểu vì sao, vào tháng Sáu năm 2013, tại
chùa Bảo Quang, Nam California, Đại Lão Hòa Thượng Tâm Châu, Thượng Chủ GHPGVN
trên toàn thế giới khơi lại chuyện Hòa Thượng Quảng Đức “tự!” thiêu sáng ngày
11-06-1963 tại ngã ba đường Lê Văn Duyệt và Phan Đinh Phùng, Sài Gòn. Trong khi
nói chuyện cụ nhấn mạnh năm nay (2013) cụ đã 93 tuổi, ý cụ lấy danh dự của một người
đạo cao chức trọng, lại rất cao tuổi ra để thề không nối láo, hơn nữa lúc đó cụ là Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo
tranh đấu chấp thuận đơn của Hòa Thượng Quảng Đức được tự thiêu trong số bẩy đơn
tất cả.
Khi nghe đên đây, chúng tôi sực nhớ lại, trên đời này
tàn ác, lừa phỉnh, gian dối chỉ bằng Cộng Sản là cùng. Thế mà khi điệp viên tình
báo Đặng Chí Bình và phi công John Macain đang tự tử trong lao tù Cộng Sản, nhưng
bọn công an phát hiện kịp, chúng vẫn ngăn chặn và cứu sống hai ngươì này. Lại còn
khuyên nhủ nữa. Thế mà những kể mang danh là con Phật lại tổ chức giết người.
Nhưng muốn tìm hiểu thật chính xác về việc Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu hay bị
thiêu, xin quý độc giả vào: Google, rồi đánh máy vào đó như sau: “thượng tọa
thích quảng đức tự thiêu? hay bị cộng dản thiêu sống?” sẽ thấy rõ, không thể chối cãi được.
Nhắc đến Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo tranh đấu năm
1963, theo như chúng tôi được biết, khi bản Thông Cáo Chung giữa Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo và Ủy Ban Liên Bộ của Chính Phủ VNCH, về phía Phật
giáo đã ký và đã được Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Khiết ký KHÁN, thì bản Thông
Cáo Chung được trao cho ông Ngô Đình Nhu. Ông Ngô Đình Nhu đưa cho bà Nhu đọc để
thêm ý kiến, bà Nhu lấy làm lạ rồi phì cười vì những đòi hỏi của Phật giáo chưa
bao giờ bị cấm. Bà đề nghị ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là “những đòi hỏi
trong đây chưa bao giờ bị cấm”. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu đem bản Thông Cáo Chung
đến buổi họp của Ủy Ban Liên Bộ sau đó và nói lại ý của bà Nhu, ngoại trưởng Phật
giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ phát
biểu: “Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường khiến mình là thằng ngu”. Vì câu
nói này mà ông Mẫu cạo đầu thừ chức Ngoại Trưởng. (Trích: “Hồi Ký của Bà ngô Đình
Nhu, tr. 188). Tưởng xin được bổ túc thêm, bà Nhu còn nhắc chồng rằng: “Anh trình
Tổng Thống phê bên lề: “Chấp thuận” rồi ký tắt ngay đó. Chứ đừng ký KHÁN như cụ
Tịnh Khiết. Vì Tổng thống là Quốc Trưởng, không thể ngang hàng với đại diện một
tổ chức được. Vì như Tổng Thống đã nói: “Tôn giáo nằm trong quốc gia, chứ quốc
gia không nằm trong tôn giáo”….
Trở lại “Thông bạch” của cụ Tâm Châu gửi đồng bào
Phật tử. Cụ Tâm Châu nhắc đì nhắc lại nhiều lần: “Mục đích của việc tự thiêu của
Hòa Thượng Quảng Đức nhằm thức tỉnh nhân tâm Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chứ không
thù oán gì chế độ.” Còn các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa khác như: Quảng Độ, Trí
Quang, Đôn Hậu.v.v. nhằm cứu nguy Phật giáo và dân tộc.
Nay, Phật giáo và dân tộc Việt Nam đang quoằn
quoại trong nanh vuốt của Việt Cộng, nhất bọn Cộng Sản Việt Nam vô thần, vô tổ
quốc đang dâng hiến cả nước Việt Nam thân yêu của chúng ta cho Trung Cộng, bằng
chứng cụ thể là cái HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ NĂM 1990 đã được phơi bày. Thế mà các cụ
như: Tâm Châu, Trí Quang, Quảng Độ. v. v. chẳng thấy “Cụ” nào tự thiêu để cứu
nguy Phật giáo và cứu nguy dân tộc cả, mặc dầu tuổi của các cụ là tuổi gần đất
xa trời rồi. Riêng cụ Quảng Đội kêu gọi biểu tình tại gia, khác nào trùm mền la
xung phong.
Sở dĩ chúng tôi
không dám đặt chữ “Thích” trước tên Tâm Châu, Quảng Độ, Trí Quang, Đôn Hậu, Đức
Nghiệp. v.v. vì chúng tôi không dám vô lễ xúc phạm đến Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu
Ni…
Đang khi theo dõi đọan video clip cụ Tâm Châu
“thanh minh thanh nga” tại chùa Bảo Quan, chúng tôi lắc đầu, sửng sốt và nhớ lại
câu giáo
huấn sau đây: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá”. Còn nói theo kiểu “Đại Phịa
Sử Gia” ở Canada thì: “Đống cứt đã khô mặt, nay lại bởi ra cho thối thêm gấp bội”
(Đúng là “Gậy ông đập lưng ông”). Nhưng có lẽ cuộc nói chuyện của cụ Tâm Châu tại
chùa Bảo Quang lót đường cho kế hoạch “NGHỊ QUYẾT 36 TÔN GIÁO VẬN” của Cộng Sản.
Vì chỉ có bọn Ma Tăng mới lưu thù chuốc oán trên 50 năm
qua dưới hai chữ
“PHÁP NẠN”, mà Bọn Ma Tăng đã được đào tạo dưới mái trường công an của chế độ
CSVN mổi năm huấn luyện hoàn thành khoảng 2000 tân công an đầu trọc tung ra từ
quốc nội tới hải ngoại để hoạt động, đó là điều có thật.”
(Trích: “NGHỊ QUYẾT 36
TÔN GIÁO VẬN” của Võ Long Triều)
Để tìm hiểu thêm về kế hoạch này, xin quý vị đọc những lá
thư sau đây của Thiếu tá Liên Thành:
CHIẾC MẶT MẠ CỦA
CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ
BỊ RỚT SAU NỬA THẾ
KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
Liên Thành
Orange County, CA ngày
16/10/2014
Kính gởi: Đồng bào
tại quốc nội và hải ngoại
Thưa đồng bào,
Trước tình hình đất nước
sắp mất vào tay Tàu cộng, thì đã có một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh
thần bất khuất ngày càng lan rộng trong giới trẻ quốc nội và hải ngoại. Biểu
tượng ấy không ai khác hơn là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm. Từ Facebook cho
đến blog đã chứng minh rằng người Việt Nam đang rất ngưỡng mộ và noi gương tiết
trực, vị quốc vong thân của vị Tổng Thống Đệ I VNCH. Từ đây gọi chung là Tinh
thần TT VNCH Ngô Đình Diệm.
An ninh tình báo của
CSVN nhận thức rõ hiện tượng đặc biệt này. Vì vậy hiện nay, CSVN đã nghiên cứu
và quyết định dùng hình tượng Thích Quảng Đức như là một vũ khí chiến lược làm
biểu tượng để chống lại Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm. Bọn CSVN quốc nội và hải
ngoại hằng năm làm lễ truy điệu vụ Thích Quảng Đức bị dàn dựng thiêu sống,
tuyên truyền cái gọi là "cuộc vận động Phật giáo năm 1963" của đám
Cộng tăng, và khai thác cuộc phản loạn năm 1963.
Đã hơn 50 năm trôi qua, từ
ngày tổ chức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) dùng danh nghĩa Phật giáo
đã phá nát miền nam Việt Nam từ vụ phản loạn ngày 1/11/1963 đạp đổ nền Đệ I
VNCH, sát hại Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm, sự phối hợp giữa CSVN và đám điệp viên tôn
giáo cộng sản nằm vùng (Cộng tăng) đến nay vẫn còn ngoan cố như vậy. CSVN
vừa quyết định bỏ ra 150 tỉ đồng VN tức tương đương 7 triệu
Dollars cho công trình Việt Nam Quốc Tự để đánh bóng vũ khí chiến lược Thích
Quảng Đức và công khai công nhận sự thành lập của đám Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất với công tác giải trừ VNCH năm 1963. (Sự thành lập của Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất là một đề án đã được tên Hồ Chí Minh chấp thuận cho
Thích Trí Quang thực hiện mà tôi đã chứng minh trong sách Thích Trí Quang, Thần
Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc.)
Trong đó đại diện là năm
tên điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng đứng đầu là Cộng tăng:
1.- Thích Trí Quang: Đảng viên cộng sản,
Tình báo viên của Cục tình báo chiến lược Hà Nội, cũng là mật báo viên cơ quan
tình báo Hoa kỳ
2.- Thích Đôn Hậu: Chánh Đại Diện Phật
Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh, Tình báo viên của Cục tình báo chiến lược, thoát
ly ra Hà nội vào năm Mậu Thân
1968
3.- Thích Quảng Độ: Tăng Thống PGVNTN hiện
tại, Cán bộ Tình báo chiến lược của Tổng Cục Tình báo Bắc Việt, qua ngỏ Ấn Độ
xâm nhập bất hợp pháp vào miền Nam VN vào năm
4.- Thích Thiện Siêu: Trụ trì chùa Từ Đàm, 40
năm tuổi đảng, Dân biểu cộng sản 4 nhiệm kỳ (sau 1975)
5.- Thích Minh Châu: 43 năm tuổi đảng, Cán bộ
tôn giáo vận của cục Tình báo chiến lược Hà Nội. Từ chùa Quán Sứ Hà Nội qua Ấn
Độ, vào miền nam chính thức bằng Visa do Thủ Tướng VNCH thời đó là Thủ Tướng
Nguyễn Khánh cấp năm 1964 (Cộng tăng Thích Trí Quang và tổ chức PGVNTN của y đã
áp lực Tướng Khánh).
Thích Minh Châu giữ chức vụ
Viện Trưởng viện Đại Học Vạn Hạnh từ đó đến 30/4/1975, sau 1975 giữ chức vụ dân
biểu của cộng sản Việt Nam 2 nhiệm kỳ.
Sau 1/11/1963, chỉ trong
vòng 2 năm từ tháng 1/1964 đến cuối tháng 6/1966, bọn chúng đã thực hiện
153 cuộc biểu tình bạo động phá rối an ninh trật tự khắp toàn các đô thị lớn,
nhỏ, tại miền nam Việt Nam không ngoài mục đích tạo cơ hội thuận tiện cho cộng
sản Bắc Việt xâm chiếm miền nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian nầy
phải nói đến cuộc phản loạn của bọn chúng tại miền Trung do tên Cộng tăng Thích
Trí Quang cầm đầu mưu toan chiếm giữ 6 tỉnh miền Trung (Quảng trị, Thừa
Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi) để dâng cho cộng sản Bắc
Việt.
Kế đến là Tết Mậu Thân 1968
bọn chúng cho ra đời Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình với tên Việt
gian Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch và tên Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện PGVNTN
miền Vạn Hạnh làm phó Chủ Tịch. Chúng phối phợp với quân du kích và bọn Việt
Cộng nằm vùng, dùng chùa Từ Đàm làm Bộ Chỉ huy An ninh và trung tâm thanh lọc
đã chôn sống 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Và cuối cùng ngày 30-4-1975
cũng chính bọn nầy cùng với 500 sư sãi của PGVNTN kéo nhau ra tận ven đô Sài Gòn
đón quân Cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn của VNCH.
Qua bao đau thương tang tóc
của đồng bào, bao nhiêu khổ nạn của dân tộc, bao nhiêu điêu linh của tổ quốc do
bọn nầy gây ra, vậy mà khi nào bọn chúng cũng vỗ ngực nói rằng bọn chúng vì
Quốc nạn và Pháp nạn mà phải tranh đấu phải hy sinh, phải tự thiêu như Thích
Quảng Đức, phải tuyệt thực 90 ngày không chết như Thích Trí Quang, phải
thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động khắp toàn lãnh thổ VNCH.
Sau 30-4-1975, tên điệp
viên tôn giáo cộng sản Thích Quảng Độ lại đóng vai trò đối lập cuội với cộng
sản trong chức vụ Tăng Thống của PGVNTN tuyên bố: “Đang trực diện đối
đầu với cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, kêu gọi đồng bào
Phật tử hải ngoại đóng góp cả hằng chục triệu Dollars cho y và tổ chức PGVNTN,
đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước chống cộng sản bằng cách: “Biểu
Tình tại Gia”.
Cũng sau ngày 30-4-1975 tại
Hải Ngoại thì tên Việt Gian Võ Văn Ái, đám Cộng tăng, dâm tăng, thổ phỉ tăng
PGVNTN như Thích Viên Lý, Thích Viên Huy, Thích Giác Đẳng, cũng hô hào
đồng bào Phật Tử Hải Ngoại đóng góp tiền bạc cho công cuộc trực diện đối đầu
với Cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của tên cộng sản Thích Quảng Độ
Tăng Thống PGVNTN.
Và gần 1 năm trước đây, 12-2013,
thì PGVNTN chia làm hai tiếp tục con đường lường gạt tiền bạc của tín đồ và
dùng Phật giáo tạo lập nhiều cơ sở nằm vùng để mưu toan cầm nắm cộng đồng Hải
Ngoại:
Một
bên là Võ Văn Ái, Thích Giác Đẳng, Thích Quảng Độ vẫn giữ danh xưng là
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một bên là Thích Viên Lý chùa Điều Ngự với danh
xưng là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Cả hai phe hiện đang
tranh nhau xây chùa to, hốt tiền bá tánh, Phật tử.
Đến nay, 10-2014, thì chiếc
mặt nạ đạo pháp dân tộc của bọn CSVN và tổ chức Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
đã bị rớt. Như trên đã nói, vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và vụ phản loạn
1963 đang được CSVN đem ra. Thành Ủy cộng sản tại Sài Gònqua thông cáo
chính thức vào ngày 12 tháng 10 năm 2014 rằng:
Ngày 12-10 CSVN đã tổ
chức lễ đặt đá khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự, Quận 10 trước sự chứng kiến
của đông đảo lãnh đạo chóp bu CS tại Sài Gòn. Việt Nam Quốc Tự được thiết
kế và xây dựng lại trên quy mô rộng 10.000 m2, trong đó có hơn 7.200m2 vừa được
Ủy ban nhân dân CS tại Sài Gòn cấp cho. Công trình Việt Nam Quốc Tự dự
kiến sẽ ngốn 7 triệu Đôla này sẽ hoàn thành trong 2 năm tới.
Bọn CSVN mang hy vọng ngôi
Việt Nam Quốc Tự cao 13 tầng sẽ trở thành biểu tượng cho "13 tổ chức, hội
đoàn, tông phái tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất và cuộc vận động Phật giáo năm 1963."
Nơi đây sẽ tôn thờ
trái tim của Thích Quảng Đức, đồng thời sẽ xây dựng nhà trưng bày về "cuộc
tranh đấu của Phật giáo"… khi đang lâm vào hoàn cảnh "pháp
nạn năm 1963."
http://www.vietnamplus.vn/khoi-cong-xay-dung-viet-nam-quoc-tu-moi-tai-thanh-pho-ho-chi-minh/285820.vnp
Thích Quảng Độ, Võ
Văn Ái, Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất, trong 2 năm liên tiếp 2013 và 2014, đã đồng hành cùng Cộng sản trong việc
dùng Thích Quảng Đức để đấu tố VNCH và Cố TT Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm tại chùa
Pháp Luân, Texas, và chùa Điều Ngự, Nam Cali, và trên các phương tiện truyền
thông như đài truyền hình IBC của chùa Điều Ngự và đài Radio Quê Mẹ của Võ Văn
Ái. Hãy giải thích với đồng bào
trong và ngoài nước về hành động bán nước hại dân của các ông trong
một cuộc tranh luận
với tôi tại bất cứ nơi đâu và thời gian nào, ngoại trừ Việt Nam, dưới sự chứng
kiến của đồng bào và giới truyền thông.
Rất
mong các ông nhận lời mời của tôi.
California, USA ngày 16
tháng 10 năm 2014
Liên Thành
Chủ tịch Ủy ban Truy Tố Tội
Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam
P.O. Box 6147, Fullerton,
CA 92834
Điện thoại: 626-257-1057
Email: ubtttadcsvn.vg@gmail.com
Đồng thời xin quý vị đọc tiếp hai bài dưới đây về những
trò ma thuật đã diễn ra trước đây:
THƯ THIẾU TÁ LIÊN
THÀNH GỬI ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TÂM CHÂU
Orange
County, California, ngày 13 tháng 7 năm 2013
“Thưa
Hòa Thượng,
Từ
bao nhiêu năm nay cho đến trước cuối tháng 6-2013 Hòa thượng nói chuyện tại
chùa Bảo Quang Nam Cali, và trước ngày 4-7-2013 Ký giả Đoàn Trọng phỏng vấn Hòa
Thượng trên đài truyền hình channel 57.7 thì cá nhân tôi vẫn một lòng tôn kính
Hòa thượng. Nhất là khi Hòa thượng ra cuốn Bạch Thư tố cáo Ác Tăng Thích Trí
Quang và Phật Giáo thuộc nhóm Ấn Quang là cộng sản, mặc dầu trước đó trong thời
gian cuộc nổi loạn 1963 Hòa Thượng cũng đã sát cánh với Thích Trí Quang và nhóm
cộng sản Ấn Quang như Hòa thượng đã tuyên bố trong cuốn Bạch Thư ngày 31-12-1993
tại hải ngoại.
(Trích -
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến,
yêu cầu Mỹ rút quân, phản đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình.
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên
cạnh Hòa Đàm Paris.)
“ trích -
Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo
Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN
không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến
sự để mất VNCH cho CS.
Vấn
đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc
lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với
Cách Mạng”. - ngưng trích Bạch Thư Thích Tâm Châu
Nhưng
nay, sau khi nghe Hòa thượng tuyên bố nguyên nhân của vụ tranh đấu Phật Giáo
vào năm 1963 và vụ ông Lâm văn Tức/Thích Quảng Đức tự thiêu, thì tôi xin thưa
cùng Hòa Thượng cảm nghĩ của tôi đối với Hòa Thượng như sau:
Tôi
hoàn toàn thất vọng và khinh bỉ tư cách của Hòa thượng, một kẻ tuổi đời đã 93
tuổi mà có thể ăn nói hồ đồ, vu khống, trở trái làm mặt một cách không ngượng
ngùng, và không biết xấu hổ là gì.
Trong
buổi nói chuyện tại chùa Bảo Quang và buổi phỏng vấn của ký giả Đoàn Trọng trên
đài truyền hình channel 57.7 ngày 4/7/2013 Hòa thượng đã nói một số vấn đề tôi
xin nêu ra dưới đây để mọi người cùng thấy sự láo lường và tư cách hèn hạ của
Hòa Thượng:
1.
- Hòa thượng nói rằng: 'Vô tình hay là cố ý đã có một cái thông điệp là cấm
treo cờ Phật giáo trong mùa Phật Đản.'
Xin
hỏi Hòa thượng đã đọc được văn thư của Tổng Thống hay Chính Phủ Đệ I Cộng Hòa
cấm treo cờ Phật giáo ở đâu, khi nào, ai đưa cho Hòa thượng đọc. Hòa thượng có
dám thề trước tượng Phật là có văn thư nầy và chính Hòa thượng đã đọc được hay
không?
Lịch
sử đã chứng minh và Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cũng đã chứng minh rằng
không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, có nghĩa rằng hoàn toàn không có văn thư nào
của Tổng Thống hoặc của chính phủ cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ có văn thư nhắc
lại thể thức treo cờ tôn giáo phải nhỏ hơn cờ quốc gia mà thôi.
2)-
Hòa thượng nói, mục đích chính của cuộc tranh đấu 1963 vì cầu
cho được "Bình đẳng Tôn giáo" thôi.
Xin
thưa cùng Hòa thượng rằng, những gì mà cộng sản và nhóm Phật Giáo Tranh Đấu
1963 vẫn thường làm là sử dụng Dụ số 10 để gán ghép cho chính phủ Đệ
I Cộng Hòa tội bất bình đẳng với Phật giáo. Cũng vì Dụ số 10 này mà ông Thích
Quảng Độ vào năm 2011 đã phạm vào tội vọng ngữ thậm xưng không thể tha thứ khi
phát biểu rằng: "Dưới thời ngoại thuộc, Phật giáo đã hoàn tất công
cuộc Chấn hưng khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, bằng cuộc Xuống Đường không
tiền khoáng hậu năm 1963, thế kỷ XX, để chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc biến một
tôn giáo dân tộc thành hội đoàn tư hữu, biến đạo lý truyền thống thành ý lực
ngoại bang"
Có
lẽ các ông chỉ biết "tranh đấu" mà không đọc nên chẳng biết nội dung
của Đạo Dụ nói gì và Đạo Dụ nầy có từ bao giờ, do ai, và mục đích của Đạo Dụ
nầy là gì. Xin thưa:
Dụ
số 10 là của Vua Bảo Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ
của chính phủ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo
Hiến Pháp VNCH, sự tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại
việc tu chính một Dụ phải có hai điều kiện:
1-
Xét thấy rằng có nhu cầu phải tu chính. 2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân
chúng. Trong cả hai nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra
yêu cầu tu chính Dụ số 10, thế thì tại sao nhóm Phật Giáo Tranh Đấu lại đổ tội
cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy
định không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Thống, như vậy những kẻ đã
đổ tội có mưu đồ gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của
Phật? Trong trường hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để nhóm Phật giáo Tranh
Đấu đã dùng để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ.
-
Xét về điểm số 1: Cho đến khi
có vụ Phật giáo giáo xẩy ra, đã không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn
kiện kiểm soát các hội rất chặt chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề
áp dụng những điều kiện đó, mà ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn
giáo, đặc biệt là Phật giáo. Có một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện
buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội
Phật Giáo, mà điều này ai cũng thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản,
thì chính phủ đều bỏ qua, đặc biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi
văn Lương thì trước 1960 và sau 1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối
với Phật giáo, ngay chính ông ta cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy
ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới
thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963 chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10.
-
Xét về điểm số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư
tín gì từ phía dân chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963, sau khi
thỏa hiệp với phái đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10
ra Quốc Hội và đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong
khi đó chính phủ cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù
chính phủ đã không hề áp dụng từ lâu.
Trong
ngày 26/10/1955 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm
thời có câu: “Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các
luật lệ hiện hành nên đương nhiên là tạm giữ. Sau đảo chánh, ngày 4/11/1963,
Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, khi tuyên bố
Hiến Chương tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”.
Như vậy, ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị
hủy bỏ. Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ
II Cộng Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê
chuẩn bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số
10 vẫn không hề bị hủy bỏ.
Như
đã biết thủ tục pháp lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền
hạn và trách nhiệm của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả
vú để lấp miệng em, tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về
luật pháp và hiến pháp quốc gia.
3)-
Hòa Thượng nói rằng:
Chùa
Từ Đàm và các ngôi chùa tại Huế bị phong tỏa, bị cúp điện, nước, và không cho
tiếp tế thực phẩm.
Thưa
Hòa thượng, sự thật không phải như vậy, có lẽ Hòa thượng không có mặt ở Huế nên
ông chẳng biết mô tê là gì. Nhà tôi ở sát cạnh chùa Từ Đàm và tôi đã chứng kiến
hàng giờ hằng ngày cho đến khi lên đường đi lính. Sự việc là chỉ có một mình
chùa Từ Đàm bị phong tỏa để không cho tín đồ Phật tử tập trung đông đảo tại
chùa, chứ điện nước không bị cúp, các thầy và các điệu vẫn vô ra chùa không bị
lực lượng an ninh cấm đoán, các điệu các thầy muốn ăn gì, mua gì thì có ai cấm
đoán đâu.
4)-
Thích Quảng Đức tự thiêu:
Theo
Hòa thượng phát biểu thì chính Hòa thượng là người chấp thuận đơn xin tự thiêu
của Thích Quảng Đức, cũng chính Hòa thượng là người đầu tiên hướng dẫn đoàn
biểu tình và cũng là người đầu tiên hướng dẫn cuộc tự thiêu của ông Quảng Đức
với lý do là để cứu nguy cho Phật giáo tại Huế. Thú thật với Hòa thượng tôi vừa
nghe câu nói nầy từ miệng Hòa thượng nói ra tôi bỗng thấy buồn nôn và ói mửa.
Thú thật khi đó tôi nhìn mặt Hòa Thượng trên
mặt kênh truyền hình mà tưởng như đang nhìn mặt của tên ác quỷ,
mặt của một tên sát nhân chứ không phải là mặt của Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm
Châu. Hành động chấp thuận và tổ chức cho đồng loại tự thiêu là hành động đáng
ghê tởm và là hành động của tên sát nhân, chứ không phải là hành động của kẻ
chân tu, Hòa thượng có biết không?
Ông
Quảng Đức bị thiêu sống chỉ phục vụ cho mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt và chính
phủ Mỹ. Bởi vì hơn ai hết Hòa thượng là Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái đã hội họp
với phái đoàn Liên Bộ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa về năm nguyện vọng của Ủy
Ban Liên Phái. Hai bên đã giải quyết xong, ổn thỏa trong tinh thân xây dựng,
thượng tôn luật pháp. Và chính Hòa thượng cũng đã hai lần được diện kiến Tổng
Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, và cũng chính Hòa thượng đã nói Hòa
thượng rất kính nể Tổng Thống. Mọi việc rắc rối hai phái đoàn đã giải
quyết xong thì tại sao phải nướng sống Quảng Đức. Câu trả lời rất dễ hiểu là
nếu mọi việc đã dàn xếp xong, tình hình chính trị yên ổn thì lấy lý cớ gì để
cho Việt Cộng và Chính phủ Hoa Kỳ lật đổ Tổng Thống Diệm được. Nướng sống Thích
Quảng Đức để phát động hận thù tạo bất ổn chính trị đó là lý cớ duy nhất và
Quảng Đức chỉ là cục thịt nướng trong bữa tiệc hả hê của Cộng Sản Bắc Việt, của
Chính phủ Hoa Kỳ, của Ác Tăng Việt Cộng Thích Trí Quang, và cuối cùng của kẻ sát
nhân Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu thôi.
Năm
mươi năm sau 1963-2013 cộng sản xây tượng phong Liệt Sĩ cho Thích Quảng Đức thì
tại Hải Ngoại đám cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đám
cộng sản và việt gian phối hợp với Phật giáo quốc doanh dưới sự chứng kiến của
tên Cộng sản gộc Lê Mạnh Thát tổ chức thật rùm beng Lễ Tưởng Niệm Đồng Chí Liệt
Sĩ Thích Quảng Đức, vì Bác vì Đảng, tự nướng trong đó có sự ca ngợi của Đại Lão
Hòa Thượng Thích Tâm Châu.
Câu
cuối cùng tôi xin được hỏi Hòa thượng là: Ngày xưa 1963 Hòa thượng đã từng hăng
say phối hợp với Ác Tăng Việt cộng Thích Trí Quang đạp đổ Đệ I VNCH sát hại
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau đó có phải vì địa vị, tiền bạc thế lực danh vọng
giữa Hòa thượng và tên ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang thanh toán nhau. Trí
Quang đã dọa thanh toán Hòa thượng ít nhất hai lần bằng "một đĩa
máu, một con dao, và một huyết thư" đặt ngay trong Việt Nam Quốc
Tự và trong chùa Từ Quang (trích Bạch Thư, Thích Tâm Châu, tr. 28). Hòa thượng
phải chạy trốn cuộc truy sát của Ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang mà chạy bám
theo Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Nguyễn Cao Kỳ để được che chở và để được thành
lập khối Việt Nam Quốc Tự đối kháng lại khối Ấn Quang của Ác tăng Việt Cộng
Thích Trí Quang, chứ thật ra ngài về với Đệ II VNCH chỉ vì cầu xin Đệ II VNCH
sự che chở, đùm bọc mạng sống thôi, chứ chẳng phải vì quốc gia đạo pháp gì phải
không Hòa thượng?
Đức
Phật đã nói: “Ba điều không thể che giấu đó là: Mặt trăng, mặt trời và sự
thật”. Hòa thượng là kẻ tu hành sao không nghe lời dạy của Đức Phật?
Đối
với Liên Thành nầy, Hòa thượng không còn là Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu
của Bạch Thư năm 1993 nữa, cá nhân tôi, và những người Việt tỵ nạn cộng sản,
những Phật tử chân chính, chúng tôi đã quá thật vọng về Hòa thượng.
Tôi
Liên Thành hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài viết nầy và rất mong được công
khai nói chuyện cùng Hòa thượng trước sự chứng kiến của mọi giới về vấn đề ông
Thích Quảng Đức bị thiêu hay tự thiêu cũng như vấn đề Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và Đệ I VNCH có đàn áp Phật Giáo hay không?
Trân
trọng chào Hòa Thượng.
Liên
Thành”
(Trích “Thư
thiếu tá Liên Thành gửi Hoà Thượng Thích Tâm Châu)
Nguyễn Công Hoan tưới xăng đốt
Thích Quảng Đức
Đại Đức Thích Huệ Nhật
LTS- Đây là tang chứng
VG Nguyễn Công Hoan và các Ác tăng PG Ấn Quang dàn dựng giết Thích Quảng Đức.
Theo lời tố cáo của ông Trần Trung Đạo, Bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền và Video ghi
lại HT Thích Quảng Đức "không tự tẩm xăng tự thiêu" hình ảnh,
tài liệu cho thấy Thích Quảng Đức bị việt gian Nguyễn Công Hoan chích thuốc mê
man, tê liệt, xong bị tưới xăng đốt sống ngày 11 tháng 6, 1963 tại Sài gòn. Hiện
nay Nguyễn Công Hoan và những tên ác tăng của PG Ấn Quang hiện đang có mặt tại
Hoa Kỳ và khắp chùa trên thế giới. Chúng tôi yêu cầu Hội Đồng Nội An Hoa Kỳ và
Sở Di Trú mở lại hồ sơ điều tra những kẻ đồng
lõa, kẻ dàn dựng phạm tội giết người đang lẫn trốn trong hàng giáo phẩm Phật
giáo GHPGVNTN như Thích Giác Đức, Thích Minh Chiếu, Thích Giác Lượng,, Thích Hộ
Giác, Nguyễn Công Hoan v. v..
Và, chính
Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là tên giả sư đã tự tay cầm một can xăng để tưới từ trên
vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Rồi cũng chính Nguyễn Công Hoan
đã dùng chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức
trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật Giáo Ấn Quang.
Trước
đây, tôi đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức và tên dân biểu lưỡng
triều Nguyễn Công Hoan, là lúc Nguyễn Công Hoan đang có mặt tại nước Mỹ.
Tưởng
cũng nên nhắc lại: Vào năm 1977, trong
lúc đương là Dân biểu của bọn việt-gian-cộng-sản của tỉnh Phú Khánh, Nguyễn
Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đã cùng Trần Bình Nam, tức Trần
Văn Sơn, cựu Trung tá Hải Quân – cựu dân biểu VNCH; nhưng Trần Bình Nam vì là
người thân của Dương Văn Minh, và là bạn chí thiết của Nguyễn Công Hoan, nên
không bị vào tù «cải tạo» mà vẫn sát cánh kề vai bên Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là Dân biểu của việt-gian-cộng-sản.
Cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một chiếc thuyền chỉ có hai người
là bạn thân thiết với nhau cùng với người tài công, để lên đường «vượt biển» tại
bãi biển Nha Trang.
Sau đó,
cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã
đến nước Mỹ. Tôi nhớ lúc đó, đã có nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền
Phong của Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện «vượt
biển» của hai người này. Song rồi theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào
quên lãng.
Nguyễn
Công Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y không hề ra mặt hay lên tiếng. Riêng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn
là thường xuyên viết bài đưa lên nhiều trang điện báo. Xin mọi người đừng quên: Trần Bình Nam là bạn thân thiết của Nguyễn Công
Hoan (Huỳnh Văn Thạnh), từng hoạt động với nhau, và cũng cùng nhau lên thuyền «vượt biển» vào
tháng 5 năm 1977, là thời điểm bọn việt-gian-cộng-sản đang kềm kẹp người dân
trong trong bàn tay sắt thép một cách kinh hoàng nhất; nhưng Nguyễn Công Hoan
và Trần Bình Nam đã thuận buồm xuôi gió trên một chiếc thuyền du lịch để sang
nước Mỹ.
Trở lại
với đoạn phim trên: You tube video: Bo Tat Quang Duc (Monge Budista suicidio). Tôi thật hết sức kinh hoàng khi nhìn thấy những tên sư
sãi của Ấn Quang, tất cả đã đều vô cảm trước ngọn «Lửa Từ Bi» đang đốt cháy đồng
môn!!!
Nhưng, tôi lại càng khiếp đảm hơn nữa, khi nhìn thấy thái
độ của những nhân viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa. Bởi tất cả họ cũng đều dửng
dưng trước hành vi phạm pháp của Phật giáo Ấn Quang, khi họ ngang nhiên tưới
xăng đốt người giữa thanh thiên bạch nhật. Họ đã đồng lõa với tội ác, vì thấy
chết mà không ngăn cản, không cứu người. Chẳng những thế, mà họ còn đưa cả hai
cánh tay ra ngăn cản những người khác để không cho ai được cứu người. Họ là ai?
Xin thưa, họ là những nhân viên cảnh sát đã theo lệnh của Phật giáo Ấn Quang,
vì phải giết chết Hòa thượng Thích Quảng Đức, mới mong làm sụp đổ Nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa.
Đến đây,
tôi xin được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn sách Trong Lòng Địch của Tác giả Trần Trung Quân,
từ trang số 99 đến trang 114, đã xuất bản vào năm 1984, như sau. Kính mời quý vị
cùng theo dõi:
«Vào
khoảng 4 giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác cụ thể. Trung úy
Dương Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng tên một, và tên
người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã thấm mệt. Nhấp một
ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm nhìn Thích Trí
Quang:
Làm cách mạng không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì càng tốt nữa.
Sự thù hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao hơn không còn
sức mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa. Bộ chính trị trung Ương đảng đã nhận rõ tình
hình và quyết định rằng, chỉ vài nhà sư chết thảm là bọn Diệm-Nhu sẽ sụp đổ vô
phương cứu vãn. Cho nên Đảng đã quyết định là phải giết sư để xúc tiến công cuộc
thống nhất đất nước. Đồng chí Kiều Tuấn Cương (bí danh của Thích Trí Quang)
nghĩ thế nào?
Thích
Trí Quang ấp úng:
- Dạ… dạ…
Vũ Mạnh
Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:
- Tôi yêu cầu đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch của đảng,
có yêu cầu đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ…
Thích
Trí Quang ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai phát biểu ý kiến nào.
Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:
- Đảng ta đã trù liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng đã là những
«đỉnh cao trí tuệ của loài người». Chúng ta bì sao kịp! Mà địch cũng không thể
nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo điều kiện
khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp dẫn được dư luận
thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối với chính quyền miền Nam
được. Này! đồng chí Cương, thằng Giác Đức
nó dám tự thiêu không?
- Chắc là không đâu, đồng chí. Nó nói hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa thôi. Nó
là học trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.
- Thế còn Thích Hộ Giác?
- Hộ Giác cũng vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm ghế Viện
Trưởng Viện Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó hy sinh
thì thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai tay mà
thôi.
- Thích
Thanh Từ thế nào?
- Thích
Thanh Từ là đệ tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện Hoa còn ở Bến Tre chưa
lên. Không có lệnh của thầy hắn chắc không chịu làm việc gì.
Đến đây,
Cao Đăng Chiếm mới lên tiếng:
- Việc
này, đồng chí Hằng có thể làm được.
Hằng, tức
Thích Thiện Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:
- Thưa đồng
chí…
Nhưng Chiếm
đã khoát tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:
- Tôi
không bảo đồng chí tự thiêu đâu mà lo. Đồng chí còn đắc dụng vào nhiều việc
khác. Tôi chỉ nói rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng tín cẩn của
Thích Quảng Đức nơi đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo tư tưởng của Thích
Quảng Đức, để hắn tình nguyện tự thiêu.
Thích Thiện
Minh cười tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội lốt thầy
chùa để làm chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này. Thích Thiện Minh vặn
mình mấy lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn hắn, rồi mới lên tiếng:
- Cái đó,
mấy anh khỏi lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi. Ngày hôm kia trả lời cuộc
phỏng vấn của tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho Quảng Đức kẹt cứng rồi.
Tôi đã nhân danh Thích Quảng Đức mà tuyên bố như vầy: “Nếu Diệm không phóng
thích tất cả tù nhân chính trị, không ban hành một chế độ đặc biệt cho các tôn
giáo, trong đó có Phật Giáo được treo cờ Phật Giáo ngang hàng với quốc kỳ, thì
thầy Thích Quảng Đức nguyện sẽ tự thiêu để gióng lên tiếng chuông báo động với
thế giới về những hành động kỳ thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt Phật giáo của chính
phủ Diệm-Nhu. Và Hội đồng Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc”.
Trường gật
gù có vẻ tán thưởng:
- Thái độ
của Quảng Đức lúc ấy như thế nào?
- Quảng Đức
không nói gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng tôi biết hắn có vẻ hơi thất vọng.
Tuy nhiên, tính Quảng Đức rất ôn hòa và vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên sau đó,
tôi đã thêu dệt cả một tòa sen rực rỡ trên niết bàn đang chờ đợi ông ta, nhờ
ông ta hy sinh vì Phật Pháp. Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành Phật, và bức chân dung
của ông sẽ được thờ phượng ở khắp các chùa sau này…
Kết quả có
đến 80 phần trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo ngại là
chúng ta không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa như Hộ Giác lỡ
miệng xúi bậy ông ta bỏ ý định sẽ hỏng hết.
Ngày tự
thiêu của thầy Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút bấy
nhiêu. Tim thầy mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một câu, ngoài
việc tụng kinh niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị pháp vong thân”
rồi, nên tùy thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy đã bay vào thế giới
khác. Lúc này, Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh Văn Thạnh phải suốt ngày cận
kề bên thầy Quảng Đức, không được rời thầy nửa phút. Không phải hắn lo cho sức
khỏe của thầy, nhưng là đề phòng mật vụ VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng
bỏng không. Cộng sản đã mất bao nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự
thiêu cúng dường, thì không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã
thức trắng mấy đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh
nâng giấc thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm
nước uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và châm lửa
đốt thầy.
Huỳnh Văn Thạnh theo cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn
không tập kết ra Bắc. Cộng sản để hắn ở miền Nam làm công tác tình báo cho Việt
cộng ở khu 5. Tới năm 1962, hắn được biệt phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm
nhập vào Sài Gòn hoạt động trong chiến dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với
đường lối và chính sách mới của Việt cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ quốc
gia” Thạnh được triệu ra khu, ẩn bóng một thời gian và sau đó Việt cộng làm hộ
tịch giả cho hắn mang tên mới là Nguyễn Công Hoan, và cho hắn về Sài Gòn hoạt động
chính trị công khai, đứng phe đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Năm
1966 tới năm 1972, nhiều lần cán bộ nằm vùng vận động tối đa rồi mới đưa hắn ra
ứng cử dân biểu quốc hội VNCH, và hắn đắc cử tại đơn vị Phú Yên.
Sau ngày cộng
sản chiếm Sài Gòn tên Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu lộ diện
nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho công an việt cộng
bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính. Để trả công cho hắn, việt
cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để lừa bịp dư luận rằng cái quốc hội của
cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm những đảng viên hay tay sai của cộng sản, mà
còn gồm cả một số dân biểu, nghị sĩ “Ngụy” đã biết ăn năn hối cải trở về với
“cách mạng”.
Tuy nhiên,
Nguyễn Công Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian, thì những
tên chủ nhân việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai, nên bèn cho hắn
“vượt biên tỵ nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều vận. Nguyễn Công Hoan đã vượt biển sang Nhật, sau
đó, nhờ thủ đoạn và móc nối chính trị hắn đã tới được nước Mỹ một cách ngon
lành. Nhưng cái mác dân biểu lưỡng trào của hắn và cuộc tỵ nạn mờ ám của
hắn đã bị đồng bào nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được trò trống gì. Hiện nay,
hắn trùm mền núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một cơ hội khác.
Đó là những
chuyện xảy ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ Tiền
Phong đều biết rõ. Nay xin trở lại với chuyện “tự thiêu của thầy Thích Quảng Đức”.
vấn đề mà việt cộng lo ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để có
thể đốt cháy thầy Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp cứu.
Mang một thùng xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho trót lọt
không phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn Thạnh, tức
Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho trọng trách cung cấp
xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh là người được đề cử để giám
sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm trước khi xảy ra vụ “tự thiêu”, chính
Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe chở đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để cho biết rằng
xăng đã được giấu trong hai thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh hàng của một nữ
cán bộ việt cộng đóng vai người đi bán hàng rong buổi sớm.
Thích Thiện
Minh hỏi:
- Bao
nhiêu lít?
Thạnh trả lời:
- 15 lít,
thưa thầy.
- 15 lít đủ
đốt không con?
- Dư sức
mà thầy, 5 lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
- Phần kế
hoạch F2 con cẩn thận nhé.
- Thầy yên
tâm, trước khi “xuất hành”, con sẽ gửi thêm một mũi Trenxinne nữa. Sau đó, con
sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol là đủ.
- Vậy à. Tốt
lắm, công con to lắm…
Bảy giờ
sáng, ngày 20 tháng 4 năm 1963 (ngày âm lịch) dương lịch là ngày 11-6-1963,
không khí bên trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều mặt mày ủ rũ
thương cho thầy Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên giàn hỏa để “bảo vệ
đạo pháp”. Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và tay sai núp áo cà sa giết
người cho cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút xảy ra biến cố.
Ngay từ
lúc 4 giờ sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy lên
để chích cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc trợ tim” để
thầy mau bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ say sưa như một đứa
trẻ thơ trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc Trenxinne thấm, cơ thể thầy
Thích Quảng Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo, thầy cũng không biết đau.
Lúc ấy, Huỳnh
Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau mình mẩy
cho thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt cộng đã chuẩn bị
xong để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ… Các… Mác!!! “
Trên đây, là
những trích đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật giáo Ấn
Quang, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bọn việt-gian-cộng-sản,
trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần Trung Quân.
Đây là một
bài viết có liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video:
Bo Tat Quang Duc (Monge budista suicidio). Nên một lần
nữa, tôi lại phải mời quý độc giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức
Thích Huệ Nhật, tức Mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà
Sa Đến Thập Tự Giá”. Ông đang có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:
“Cái chết tự nguyện là gì? Những người tự thiêu
cho đạo pháp:
“Tôi xin giới hạn trong phạm vi hiểu biết của
cá nhân mình, và những gì tôi viết sau đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận
xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã chết nhưng nay tôi còn sống trong Ơn Cứu
Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn, rộng mở hơn.
Người tự
thiêu đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo dưới
thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là một vị tu
sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con ruột ngài cũng là
đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi tiếng sau khi hy
sinh.
Cũng
như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa
Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của ngài chỉ
là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của ngài là lâu dài từ
mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật giáo Việt
Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa
những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp
chính quyền.
Nhìn lại
quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội Phật Học
VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh nha đưa
GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế lực của họ.
Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang.
Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại
như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một bằng
chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể ra
những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất phiền.
Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn
còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề
đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được. Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích
Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc Việt. Ông bắt cóc niềm
tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản
Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ
tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn
thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo
vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.
Tôi tin
chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang thương
về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung, qua sự hy sinh của
ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở thành một vị Thượng tọa
nổi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên
đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và cũng bị
tù đày trong chế độ cộng sản.
Lần tự
thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp và tổ
chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình sao đó.
Một người
khác là thầy Lưu Bổn đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã nhảy xuống
giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau khi bị nghi ngờ
một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn
trưa với tôi một cách lặng lẽ.
Một người
bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở một
trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một chuyện riêng,
nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn lao khác.
Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt Nam Cộng
Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự thiêu đã được gán cho những
ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà người tự
thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng
thơm “Thánh Tử Đạo”. Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết
chuyện riêng, nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy
chuyện bậy bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được
gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm dụng.
Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì ít. Vì
một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ có
nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình nguyện tự
thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những người sáng giá nghĩ
rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.
Những
người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã tự
thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những đứa con
giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn… Họ không còn thiết sống nữa. Họ
tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng cái chết tự sát.”
Quý độc
giả vừa đọc qua những trang sách của tác giả Trần Trung Quân và cựu Đại đức
Thích Huệ Nhật.
Nên biết,
sau khi chiếm được miền Nam tự do cho đến hôm nay, bọn việt-gian-cộng-sản đã trả
công cho Phật giáo Ấn Quang bằng rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều con đường
mang tên Thích Quảng Đức.
Riêng
tôi, vì đã vô cùng căm phẫn trước những hình ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức
đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân tính và tàn ác, khi đem sinh mạng của Hòa
thượng Thích Quảng Đức ra để làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi vậy, nên tôi phải viết lên bài này, với tất
cả tâm thành, tôi ước mong cho mọi người đừng bao giờ đem sinh mạng của bất kể
người đó là ai để làm vật hy sinh. Bởi mỗi sinh mạng của một con người trên thế
gian này, đều do Trời sinh, thì xin mọi người hãy để cho Trời diệt.
Nhưng, những việc làm của Phật giáo Ấn Quang; trong
đó có: Lệnh Bức Tử: Hòa thượng Thích Quảng Đức, đã được xác tín hơn nữa, qua những lời của chính
Hòa thượng Thích Quảng Độ qua cuốn sách:
«Nhận định những sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc
và Phật giáo Việt Nam Thống nhất». Cuốn sách này đã do Võ Văn Ái
viết lời giới thiệu và phát hành vào năm 1995; và Thích Quảng Độ đã có những lời
viết như sau:
«Chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình
trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các
tôn giáo khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đình Diệm ra tay
đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại
để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11-1963, chế độ ông Ngô Đình Diệm
bị lật đổ».
Và đến cuốn ngụy thư thứ hai lại cũng do Võ Văn Ái
viết lời giới thiệu và đã đăng trên báo «Quê Mẹ» số 113, trang 06, tháng 06 năm
1995, với cái tựa đề:
«Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của Thích Đức Nhuận «nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất» tức Ấn Quang.
Mở đầu Thích Đức Nhuận đã viết:
Đến trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:
«Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc
tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn
dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập».
Nên ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm
1981, Thích Đức Nhuận đã được bầu lên ngôi «Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản».
Qua những
lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết, rõ ràng là Thích Đức Nhuận đã công khai
nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:
«Phật giáo
Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ…» là để đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng hơn cả là:
«đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ».
Như thế,
đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho
mọi người hiểu được rằng: Phật giáo Ấn Quang «phát khởi cuộc vận động
chống chế độ và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ». Nghĩa là gồm cả cộng sản Bắc Việt.
Như vậy,
căn cứ theo những lời của chính hai người đã và đang đứng đầu của GHPGVNTN, tức Ấn Quang, thì cả hai đã công khai nhận trách nhiệm
về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự sụp đổ của Nền Đệ
Nhất Việt Nam Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975, với các sư sãi của
Phật giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng, để đón rước cộng
quân vào các thành phố tại miền Nam tự do, cùng với những màn bắn giết các vị
là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, vào trước ngày 30-4-1975, để trả thù và để
lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.
Chính vì
thế, Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện bằng cách nào chăng nữa, thì vẫn
không bao giờ xóa được những tội ác của một thời «tranh đấu» có bàn thờ Phật xuống
đường, có máu đổ đầu rơi. Chẳng những vậy, mà qua cái «Thông bạch của hàng giáo phẩm đang đứng đầu Phật giáo Việt Nam đang hành đạo
tại Hoa Kỳ», những người này đã bênh vực cho Thích Trí
Dũng, người đã công khai trên sách báo là:
«Vào Tết Mậu
Thân, 1968, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất».
Vậy, để
biết thêm một cách tường tận hơn, xin kính mời quý vị hãy đọc lại bài: Tưởng Niệm Bốn mươi Năm Cuộc thảm Sát Mậu thân:
1968-2008; hiện vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo: Hồn Việt: hon-viet.co. uk
Ngày
28-02-2010
Đ ại Đức Thích Huệ
Nhật
Còn linh mục
Cao Văn Luận lúc gần cuối đời đã phê phán như sau: “Sự thanh toán ông Diệm và
chế độ ông ta phải chăng là một sai lầm tai hại cho đất nước Việt Nam. Những hỗn
loạn chính-trị, những thất bại quân sự sau ngày 1-11-1963 đã trả lời cho câu hỏi
đó”.
(Xin được nhắc lại: Linh mục Cao Văn Luận được
Tổng Thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm giữ chức viện Trưởng viện Đại Học Huế. Nhưng
khi biến cố Phật giáo xẩy ra, linh mục Cao Văn Luận đứng về phe ông Trí Quang, chống
Chính Quyền, nên ông ta đã bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cách chức Viện Trưởng Viện
Đại Học Huế, rồi lại còn bị giam lỏng tại Sài Gòn).
Tóm lại, tất
cả người Việt chúng ta đều là nạn nhân của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh của
Hoa-Kỳ điển hình là tên Thứ Trưởng Ngoại Giao Averell William Hariman, của truyền
thông và báo chí Hoa-Kỳ, của các cường quốc nói chung… nhưng chúng ta cũng là nạn
nhân của chính chúng ta, trong đó những kẻ nhiều tội nhất là những kẻ làm tay
sai cho Mỹ, cho Pháp, cho Cộng sản quốc tế,...!
Để kết thúc những dòng thô thiển trên, chúng tôi
xin trở lại lời nói cuối cùng trên đây của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi Tổng Thống
và ông Ngô Đình Nhu rời khỏi dinh Gia Long:
“ĐI NHƯ RI LÀ
MẦT NƯỚC”
Nhưng chúng tôi
băn khoăn: “Mất nước” là mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản miền Bắc hay mất
cả nước Việt Nam vào tay Trung Cộng, như lời Tổng Thống và ông cố vấn Ngô Đình
Nhu đã tiên đoán trước đây:
“Nếu Cộng Sản
miền Bắc thắng được miền Nam, thì toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành quận hay
tỉnh của Trung Cộng. Yếu tố còn lại chỉ là thời gian”.
lê thanh hùng
Ghi
nhớ ngày “Quốc Tang” thứ 51 (2014) của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét