Sau
ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình,
tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp "may" ở lại
để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của của những
người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để "giải phóng cho đồng
bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam "; của những người cùng uống nước sông Cửu
Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho "tạm mang dép râu, đội nón cối"
(mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con "cọp 30", những người
Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm
vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có
thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam
nói
riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời
khỏi
Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia
đình
nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất
cả
người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao
giờ
hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố
tình
sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho
đảng
cái chánh nghĩa "giải phóng dân tộc".
Cho
đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ
trước
và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày
lịch
sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là
sự
thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng,
thù
ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con
không
ai ngờ là "cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân
đạo,
phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được.
Do
đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang "hồi ký" của
riêng
cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng
phụ
cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự
việc
mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng,
những
sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã
nghe...,
để tạm gọi là "luận cổ" (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn
già
sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận
định,
và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác
hơn
về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của
người
cộng sản Việt Nam,mà "suy kim" (suy biết được cái hiện tại). tức là để
thấy
được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.
Người
dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì Nước Việt
Nam
Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và
củaThế
Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã
xé
bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân
công
khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
ngày
mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không
muốn
bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi
ký,
Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng
tôi
chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân,
có
liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu
vào
trang lịch sử đau thương của Đất Nước.
.....................
Ngày
1 tháng 2 năm 1973
Tôi
và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc
Phòng
được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành
lập
theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên
ngày
27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê.
Từ
hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được
lệnh
chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của
cái
gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua
nghiên
cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất
cứ
điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ
có
hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em
học
viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy
rõ
ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger
dịch
ra tiếng Anh, một bản dịch "thật sát nghĩa" từ ý lẫn lời văn của tác
giả
Miền Bắc!
Đúng
vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và
chúng
tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ
nào
cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.
Tôi
muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của
chúng
ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt
ngay
từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên
ở
Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc
chiến
với một danh từ thật kêu là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh".
....................
Ngày 28 tháng 4/1975:
8
giờ sáng,
Đại
tá Ngyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại
trực
tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái
đoàn
cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có
Luật
sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và
chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng
4/75.(một
bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ
1955,
sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và
từ
đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt. ) Khối
Ngoại
Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng
đại
tá Đài cho tôi biết là "ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc
gặp
mặt nầy rất quan trọng". Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp
đại
tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh "được đồng
ý
cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và
CPLTMN"
(nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).
(Xin
mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc
anh
Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là "Sĩ
Kiến,
Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn
7
bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị
đối
nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất.
Nhờ
đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về
trao
trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Trần văn Trà cho làm đại diện cho
Cộng
sản để "mật đàm với đại tá Nghĩa" nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm
1989,
sau
khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được
gặp
anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời
khỏi
quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải
"đi
một xuồng" với tướng Trà).
Phái
đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại
hồi
10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại
tá
Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ,
hay
vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn
ngoài
câu "như đã thỏa thuận với anh hồi nãy", tức phải được hiểu ngầm là
"chỉ
có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác"
Tò
mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi
được
biết là Ông Dương Văn Minh đã "mò" lên tận vùng Long Khánh (không rõ
chính
xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy
ngày
trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.
(Dương
Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam
với
quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý
Cáp
với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc
của
cộng sản.)
Vẫn
theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến
Dinh
Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác
bỏ
đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam.
Vì
vậy ông đã quyết định là "chỉ còn một cách duy nhất là "đầu hàng vô
điều
kiện"
mà thôi.
4
giờ chiều :
Tôi
muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng
Nguyễn
Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ
tư
dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.
Anh
còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa?
Thưa
thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh
em
quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai
29
thưa thiếu tướng.
Gia
đình anh đi chưa?
Thưa
thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn
ở
đây?
Tôi
và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên)
cho
phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau.
Nói
đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp:
Phải
đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về
đây.
Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết
rồi
không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!...,
Ông
Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm
gì
nữa anh Nghĩa?
Nói
tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua
điện
thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời
ngang
dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn
chánh
trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương.
Không
thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp:
Vậy
tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp
nữa
đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân
nữa,
chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe,
chúc
anh may mắn
Xin
chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an.
Cám
ơn anh.
Một
lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia
đình
ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi
đã
nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp :
Có
lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của
ông
Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả. ?
Từ
sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân
Sơn
Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng
các
loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau
về
hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình
hay
thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng
toàn
bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả
Vùng
3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà
thôi.
6
giờ chiều
Chúng
tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ
quan
/Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).
Chờ
cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp,
vẫn
phải trực như mọi người và mọi đơn vị.
10
giờ đêm:
Từ
10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân
Sơn
Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều
chỉnh
vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu
dân
cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay.
Nhưng
từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích
kích
pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và
các
kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng
tôi
cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà
bị
cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác
Chúng
tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng
trước
văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng
tôi
chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa.
Từ
đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ
loại,
không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay
tiềm
kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có
tiếng
súng phản pháo nào.
Riêng
trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng
100
thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền
sát
viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì
trong
2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi!
Ngày 29 tháng 4: 9 giờ sáng:
Chúng
tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo,
từ
đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt
hại
vật chất và nhân mạng đêm qua..
Đến
9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống
ngay
trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không
chịu
đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng
bắn,
người Nam Dương.
Tôi
vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo
của
phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ
trận
liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn
chánh
quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh
nặng,
vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975.
-
lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho
Tổng
Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo
đúng
tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất
đầy
đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông
bảo
tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang)
-
lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù
của
cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu
và
thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75.
Tôi
cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu,
nhưng
lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng..
Tôi
đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh
Quân
đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một
"đường
lối hành động" nào hay không. .
10
giờ sáng:
Tôi
liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân
nhân
các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy
có
các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v. thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số
anh
em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng
sẽ
xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản
thương
xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị
thương
đêm qua.
11
giờ 30 sáng:
Chúng
tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng
cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep muitrần có gắn liên
thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm
ngay
giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất
cánh
rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh
nầy,
mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra
đây
là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis
trong
công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng
4.)
Chúng
tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng
lúc
vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại
sao
thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu.
Hai
xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng
theo
xe của tôi.
Đến
ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội
trường
của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không
còn
biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ
quan
theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại
tá
Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh,
trung
tá Hoàng chánh văn phòng v.v.) đều theo tôi vào hết trong hội trường
vắng
trống nầy.
Đến
4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới
tàu
của Hải Quân nên lên tiếng hỏi:
Tàu
của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?
Chạy
đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung
tá
Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời.
Tôi
bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ
Tổng
Tham Mưu. Bèn ra lệnh:
Anh
em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt
chắc
chắn còn đợi tôi.
Không
kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không
cho
ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được.
Vậy
là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè!
Trung
tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . .
Thế
là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy
khi
sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ
Tổng
Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch
Đằng
để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ
tôi
không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng
xuống
tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa )
7
giờ chiều
Trung
tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá
nhân
tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới
biết
được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không
còn
một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều
đã
tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi.
Không
cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi.
Đại
tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ
Tổng
Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất
trong
hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng
Tham
Mưu để tìm phương tiện di tản.
8
giờ 30 tối:
Các
trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy
viên
Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để
bốc
người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một
tiếng
súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn
lên,
điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào
đó
rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.
Có
tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ
Tổng
Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O.
ngay
phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang
ở
đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm
gai
của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước
đường)
trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy
khác.
Riêng tôi thì không thích "chui rào" như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân
hay
vì số mạng không biết )
Ngày 30 tháng 4:
6
giờ sáng:
Do
đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và
một
số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ
di
tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu.
7
giờ sáng:
Nhân
lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp
tùng
theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây
được
nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.
Ra
khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là "đường ai
nấy
đi" vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của
Miền
Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!
Tôi
lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần
áo
và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và
chánh
trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây giờ chỉ còn xem con đường nào thuận
tiện
nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng
tàu
thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu
hay
Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một
vòng
xem sao rồi mới quyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng
em
họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham
Mưu
trưởng..
11
giờ trưa
Tổng
Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam "đơn phương ngừng bắn
vô
điều kiện", một cách chơi chữ để nói lên một sự "đầu hàng Cộng sản Bắc
Việt
không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã
trao
cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền
Tổng
Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh
Sài
Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và
kêu
gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!
Lắng
tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng
Hạnh
tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ
bộ
quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong
mượn
chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi
thế
là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng
quá
nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn
là
không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là
cộng
sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có
giải
pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì
đâu
có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa
đi
vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu
lúc
nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường
Trương
minh Giảng xuống Sài Gòn.
Lúc
nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà
đóng
kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác
từng
biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân
quá
sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại
quốc.
Tuy
không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác
đác
một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng
trại
Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp
Quân
sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của
anh
em "Biệt kích 81 Dù" đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng
Cha
Cả
lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám
để
tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc
tăng
T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ
mặc
dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.
Đường
Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe
nào
chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của
bọn
đặc công Bắc Việt.
Khắp
các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả
Gia
Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn
dược
đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn
ngang
từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống
rãnh..
có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu
hàng
của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên
đài
phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người
chạy
long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi
trần
truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề
tục
tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan
tâm
khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!
Bến
Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá
đông
đang còn lóng nhóng chờ... tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc
chắn
không còn chiếc nào.
Tôi
vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh
sát
dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không
cho
một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến
ngăn
chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con
đường
ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn
cộng
sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi.
Như
thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi
thủ
đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì
đành
phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản
Bắc
Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ.
Trên
đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ
Sài
Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng
chiến
xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã
xảy
ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem,
tôi
vội chạy về Bàn Cờ ngay.
6
giờ chiều:
Tôi
có ý định lên Hạnh thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình.
Nhưng
khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng
quá
đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu
nhau
đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ
chiều
nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào
hàng
"chiến lợi phẩm chiến tranh". Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất
cả
đều
phải ra khỏi bệnh viện, và "ngay tức khắc" không được chậm trễ, không
được
mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ
Ngụy,
không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.
Tất
cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao
công
dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình
trạng
bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành
hay
chưa lành? v.v. Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa
được
chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu
xong
vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang
xuất
viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà
về?
đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.
Đây
là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng,
giữa
Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế
chiến,
người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo
như
thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng?
Để
giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh
chùa
Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô
máy,
xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình
trạng
giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ
Rẫy,
Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện
tư
nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn văn Tạo, Nguyễn duy Tài ở đường Pasteur.. để
nhờ
tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình..
Giờ
nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử
hỏi
dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai
biết
đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng
tôi,
nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại
Tổng
Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi
bàn
mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân
Dân
BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ
trong
chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí
Minh!!!
Đêm
nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi
trước
một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ
được
chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh "đổi đời"! Ước gì
cảnh
đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều
hôm
qua ở Gò Vấp!
Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975
Không
có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi
lần
về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của
tôi
là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà
cộng
sản Bắc Việt gọi là bài trừ "Văn Hóa đồi trụy" :
Sau
ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra
đời.
Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ
trên
tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con "cọp 30"), tại Sài Gòn Chợ Lớn
thì
mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.
"Văn
hóa đồi trụy" được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh
vực
chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ
thuật,
văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v... đang được lưu hành và sử dụng
tại
Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu
vào
băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào
(trừ
chữ Tàu và chữ Nga).
Mục
tiêu mà các "ông cọp 30" nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia
(national
library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím
gáy
vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội
nghiệp
cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn),
và
rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ
Thuật,
Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v... mà anh Hữu đã tốn công
sưu
tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút
chốc
bị "cọp 30" xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ
Encyclopedia
lên xem mà ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay
một
"cọp 3O" khoảng 16 tuổi tới đuổi:
"Đi
đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của
thực
dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì
Ta
cần gì ba cái thứ nầy nữa!!"
Tội
nghiệp! Thật là tội nghiệp!!!
(Về
sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc
gia
nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới
và
tiệc
"liên hoan" của cán bộ công nhân viên các cấp).
Mục
tiêu kế tiếp của bọn "cọp 30" là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở
khu
chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng
nhà
khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt,
bỏ...
nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ"
nầy.
Về
văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không
phải
loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào,
đều
được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu
hành,
xé
đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải
lương,
hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng
đào
hát Kim Cương phụ trách phần nầy).
Nói
tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng
tích
của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền
Bắc
đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay
không
và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay
vì
đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi
cách
nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn
minh
tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát
triển
như nhau... nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa
đúng
theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối
thập
niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh
nhờ
chạy theo phong trào "đổi mới" của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng
đó
mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi
lùi
vào thời kỳ đồ đá... từ sau ngày cướp được
Ngày 4 tháng 5
Tôi
đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài
Gòn
qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết
là
người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành
động
phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn
thân,
trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô
công
Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới
được
biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào
tiếp
thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên
văn
lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :
"Sau
khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo
suy
đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng
quân
sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn
vào
sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ
sao
vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại
sảnh,
nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng
sự
viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy
sao
vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân
Miền
Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao
cấp.
-"Thưa
quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông"
Sĩ
quan nầy dùng danh từ "mầy tao" xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên
tiếng:
-
"Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù
nhìn.
Mầy làm gì có "quyền" nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền
đó
bằng
khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là
tướng
mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể
từ
bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!
Mặt
tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người
của
MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên
xe.
Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang
đứng
trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt
và
họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất
trận!
Tướng
Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp:
-
"Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng
cua...
Vị
trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng:
-
"Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy
lại
đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một
hộp
thịt kho mặn"
Sau
đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một
gian
phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng
trước
sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp
ảnh
lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.
Sau
đó ông Minh bị "bộ đội" bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ
quan
cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi
dưới
hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông
được
đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các
binh
sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như
khắp
nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực
gần
Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,...
Đến
13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng
hầm.
"
Cũng
vẫn theo lời của anh bạn tôi:
-
Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc
Lập
ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn
Mẫu
và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn
Ba,
Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v...). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh
Độc
Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu "bất hủ" với sĩ quan chỉ huy Bắc
Việt
rằng:
-"Tôi
còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20
tấn
vàng".
Vị
sĩ quan đó đáp ngay tức khắc:
-"Đó
không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch
thu,
mầy hãy trao ngay cho tao đi!".
Và
ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày
30/4/1975,
trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ
cách
thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo
vẫn
bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác".
..................
Ở
nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh "ngu dốt" của một
toán
bộ
đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người
dân
Miền Bắc nói chung:
Trong
lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một
toán
chừng 6 anh "bộ đội" ập vào nhà "khám xét".
Người
chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức :
Cái
"đài" nầy là của anh?
Phải,
của tôi
Anh
làm "chức vụ" gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái "đài" nầy?
anh dùng cái
đài
nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay
về
cơ quan để "làm việc", mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh
Đức
ở
trần)
Xin
lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải
cái
đài.
Đồ
ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà
anh
có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . .
..
. . . . . .
Tôi
rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội
nghiệp
cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với
thực
tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và
mức
độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào
đối
với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng
thật
quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng
sắp
tới... có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt
của
kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc...
Ngày
5 tháng 5/75
Tôi
quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm
trú
và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi "học tập". Ở
đây
có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ
tôi),
dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở
tỉnh,
như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay
tĩnh
Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn
Thêm
đều bị họ kết án là "có tội với nhân dân" mà không thông qua một tòa
án
nào,
và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã
tấu...Riêng
anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn
một
năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư
Long
Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)
Sáng
nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì
tại
một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công
tác
hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo
chăm
nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là
"nghĩa
trang quân đội Hạnh Thông Tây" nằm ở đối diện không xa với chùa nầy.
Đưa
tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ
còn
có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp
úng
nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ
cho
tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện "mất nước", nhưng khóc vì động
lòng
từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm
săn
sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày
mồng
3 tháng 5 vừa qua.
Mặc
cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng
tọa)
họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi
mộ
cuối cùng...... Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:
"
Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng
trọt
để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà
làm
nghĩa địa thì phí của trời quá... độc ác với nhân dân quá!"
Thật
tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự
việc
qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất
phát
từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền
Bắc,
đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.! Dù họ là
người
Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày
hôm
nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo
đúng
lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều
khiển
họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy.
Ông
bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho
những
lời "tố cộng" của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là
những
chuyện "đặt điều" cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán
chính
Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi,
rồi
đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản
nầy.
Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ
phải
chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa... trong tiến trình xây dựng
chủ
nghĩa xã hội của họ.
Tôi
mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem
thử
là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được
thì
hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5.
Có
đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước
hết
là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài "Thương
Tiếc",
một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở
mặt
tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi
sạch
không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành
bình
địa!
Trên
đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một
lời
nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác
hẳn
với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước
khi
giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của
tôi:
-
Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của
bất
cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo
đạo
lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng
biết
là "nghĩa tử là nghĩa tận" hay "chết là hết". Dù giữa cá
nhân anh và
tôi
có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi
thì
coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến
nữa.
Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây?
Nếu
không muốn nói trước hết là nhằm "trả thù cho quân đội và nhân dân Miền
Bắc"?
sau đó lại "xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa
trước,
người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ
trong
tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai
dẵng
của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn
sóng
xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ?
Tôi
nghĩ chỉ có như vậy họ mới đan tâm có những hành động phi nhân đạo nầy.
Và
chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều
phải
chịu chung một số phận. Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng
tôi...
những chiến binh còn sống sót.
Nhưng
ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi
thì
ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!
Chúng
tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành
tâm
cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh
viễn
thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và
tàn
bạo này.
Dương
Hiếu Nghĩa
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.