http://www.viet.rfi.fr/Thứ
bảy 26 Tháng Bẩy 2014.
Carlyle
Thayer : Hành động của Trung Quốc đã tạo ra một vết nứt sâu đậm trong giới lãnh
đạo Việt Nam. Dư luận Việt Nam rất tức giận vì khủng hoảng giàn khoan và muốn
chính phủ phải hành động kiên quyết
Reuters
Ngày 15/07/2014 có thể nói là Bắc Kinh đã
bất ngờ cho rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam mà Trung Quốc
đòi chủ quyền như hơn 80% còn lại của Biển Đông. Nhiều giả thuyết đã được nêu
lên về lý do khiến Bắc Kinh phải giảm nhiệt sau hơn hai tháng gây căng thẳng với
Hà Nội. Các giả thuyết đó có thể đúng, có thể sai, tuy nhiên, theo giới chuyên
gia, có một điều chắc chắn là hệ quả của vụ HD 981 là quan hệ Việt Trung không
thể nào được như trước đây.
Ngay sau ngày Trung Quốc loan báo quyết định
di chuyển giàn khoan HD-981 về phía đảo Hải Nam, Giáo sư Carlyle Thayer; chuyên
gia phân tích về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales)
đã dành cho Ban Việt Ngữ RFI một bài phỏng vấn về khả năng diễn biến trước mắt
của quan hệ Việt-Trung thời hậu HD-981.
Về giả thuyết cho rằng động thái của
Trung Quốc cho rút giàn khoan gắn liền với sức ép đến từ Hoa Kỳ, đặc biệt là của
ngành ngoại giao Mỹ, Giáo sư Thayer nhận xét thận trọng :
Thayer :
Ngành ngoại giao Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng nhưng không quyết định. Trung
Quốc đã đoán chắc rằng Mỹ sẽ tổ chức một cuộc tấn công chính trị lớn tại cuộc họp
của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ARF năm nay và bằng cách mở cửa cho các cuộc
thảo luận song phương với Việt Nam. Trung Quốc đang tìm cách làm cho Mỹ hụt
chân.
Quan trọng hơn, bằng cách mở cửa cho các
cuộc thảo luận song phương với Hà Nội, Trung Quốc hy vọng rằng Việt Nam sẽ đáp ứng
lại bằng cách bác bỏ các kế hoạch của phe thân Mỹ trong giới lãnh đạo muốn Việt
Nam liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ và Nhật Bản.
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng giàn
khoan dầu là một ví dụ khác về tính toán của Trung Quốc đẩy các con chốt tiến
lên để họ có thể đi xa đến đâu trước khi thối lui. Trung Quốc hiện đã xác định
được rằng họ có thể triển khai một giàn khoan dầu ở vùng biển tranh chấp mà
tương đối không bị trừng phạt.
RFI : Theo Giáo sư, động thái tiếp theo của
Trung Quốc sẽ là gì vì Bắc Kinh luôn luôn nói rằng nó không hề làm gì sai trong
vụ giàn khoan ?
Thayer : Động
thái tiếp theo của Trung Quốc sẽ là lôi kéo Việt Nam vào các cuộc đàm phán, qua
đó tăng cường uy thế cho cái gọi là nhóm thân Trung Quốc tại Hà Nội hoặc là phe
mà tôi gọi bằng thuật ngữ "thỏa hiệp" (accommodationist).
Các nhà lãnh đạo Hà Nội sẽ tìm cớ để đưa
quan hệ song phương Việt-Trung trở lại đường hướng trước đây (trước vụ giàn
khoan). Trung Quốc nhắm mục tiêu phá tan bất kỳ nỗ lực nào của Việt Nam trong
việc xúc tiến một hành động pháp lý chống Trung Quốc, và như vậy sẽ khuyến
khích các quốc gia khác trong khu vực làm theo.
Trung Quốc muốn lấy lại thế chủ động
chính trị-ngoại giao và chuyển trọng tâm chú ý trở lại các cuộc đàm phán
ASEAN-Trung Quốc về việc thực thi bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) và các cuộc thảo luận liên quan đến một bộ quy tắc ứng xử.
Trung Quốc, tuy nhiên, sẽ tiếp tục tăng
áp lực đối với Philippines tại vùng bãi cạn Scarborough và bãi Cỏ Mây Second
Thomas Reef và tiếp tục các hoạt động đòi lại các đảo trong khu vực quần đảo
Trường Sa.
Qua tháng Năm năm tới, có thể dự trù là
Trung Quốc sẽ có những cuộc tấn công mới trong lãnh vực thực thi lệnh cấm đánh
cá của họ trên Biển Đông; và thực hiện các hoạt động thăm dò dầu hỏa
khác.
RFI : Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có thể
trở lại tình trạng như trước vụ triển khai giàn khoan dầu hay không ?
Thayer : Hành
động của Trung Quốc đã tạo ra một vết nứt sâu đậm trong giới lãnh đạo Việt Nam.
Dư luận Việt Nam nói chung rất tức giận vì cuộc khủng hoảng giàn khoan và muốn
chính phủ phải có hành động kiên quyết. Trong khi phe bảo thủ trong chính quyền
Hà Nội rất có thể là sẽ hoàn toàn phản ứng thuận lợi trước Trung Quốc, sức đề
kháng đáng kể chống lại kiểu "kinh doanh như bình thường" với Trung
Quốc đã thẩm thấu vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điểm mấu chốt gây căng thẳng là tính chất
hữu hiệu của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa được tôn lên thành nhân tố trung tâm
của mối quan hệ song phương Việt-Trung lại đi ngược lại lợi ích dân tộc Việt
Nam Hành động của Trung Quốc đặt giàn khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam đã góp phần làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai bên.
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng giàn
khoan đã biến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc
thành một trò cười. Trong bất kỳ trường hợp nào trong tương lai, từ ngữ này khi
được dùng sẽ vang lên một cách rỗng tuếch trong công chúng.
RFI : Động thái tiếp theo của Việt Nam sẽ
phải là gì ?
Thayer : Việt
Nam hiển nhiên là phải tích cực đáp ứng nếu Trung Quốc báo hiệu rằng họ đã sẵn
sàng tiếp đón một phái đoàn cấp cao để thảo luận về cuộc khủng hoảng giàn khoan
và về việc quản lý các vấn đề Biển Đông. Nhưng Việt Nam không nên rơi vào cái bẫy
của Trung Quốc làm hòa mà không có được bảo đảm chắc chắn về các hành vi tương
lai của Bắc Kinh. Việt Nam cần phải kiên quyết trong các cuộc thảo luận riêng để
đòi Trung Quốc cam kết hành động phù hợp với các thỏa thuận trước đây giữa hai
bên.
Việt Nam cũng phải ủng hộ chính sách của
Mỹ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành xử dựa trên luật lệ và tuân thủ
luật pháp quốc tế. Việt Nam phải thúc đẩy mạnh mẽ điều này trong khối ASEAN. Mục
tiêu chính của ASEAN nên chuyển từ việc đặt trọng tâm trên một bộ quy tắc ứng xử
cho Biển Đông COC qua việc nhấn mạnh đến việc đòi tất cả các đối tác đối thoại
của khối, kể cả Trung Quốc, là phải tôn trọng các chuẩn mực và pháp luật quốc tế,
trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Việt Nam cũng phải tiếp tục để mở khả
năng tiến hành hành động pháp lý (kiện) Trung Quốc nếu nước này làm quá trong
tương lai.
Việt Nam nên cố gắng định hình chương
trình của Hội nghị các Tư lệnh Hải quân ASEAN, Diễn đàn Hàng hải ASEAN Mở rộng
và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN sao cho các cơ chế này chú trọng hơn đến
các biện pháp thiết thực để tăng cường an ninh hàng hải ở Đông Nam Á, trong đó
có Biển Đông.
Việt Nam cần phát triển mối quan hệ chặt
chẽ với Philippines (đã được tiến hành), Malaysia, Indonesia và
Singapore. Cuối cùng, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc phòng và an ninh
với càng nhiều đối tác đối thoại càng tốt trên cả hai cơ sở song phương và đa
phương.
RFI : Vậy là Trung Quốc đã rút một giàn
khoan dầu từ vùng biển tranh chấp một tháng sớm hơn so với dự kiến ban đầu.
Giáo sư đánh giá sao về động thái này ?
Thayer : Trung
Quốc đã rút giàn khoan dầu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì ba lý
do.
Trước hết : Giàn khoan HD-981 được cho là
đã hoàn thành nhiệm vụ thương mại là tìm kiếm dầu khí. Thứ hai : Trung Quốc đã
cho rút giàn khoan và đội tàu hộ tống đi để giảm thiểu nguy cơ đến từ bão
Rammasun. Thứ ba : Trung Quốc di chuyển giàn khoan để tác động đến Việt Nam trước
lúc mở ra Hội nghị đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam
có mục tiêu cân nhắc một hành động pháp lý chống lại Trung Quốc (tức là kiện
Trung Quốc).
Lý do thứ ba nêu trên quan trọng nhất bởi
vì nó mở ra cánh cửa cho các cuộc thảo luận song phương giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Điều này có thể thúc đẩy Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có một
cách tiếp cận thận trọng và gạt bỏ khả năng hành động pháp lý.
Ngoài ra, việc rút giàn khoan sớm hơn dự
định diễn ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Diễn đàn An
ninh Khu vực ASEAN (ARF). Điều này cho phép Trung Quốc chuyển dịch trọng tâm
chú ý của Diễn đàn, từ hành động khiêu khích của Trung Quốc qua việc tập trung
vào hợp tác. Tóm lại, Trung Quốc đang tìm cách chuyển từ việc đối đầu trên biển
qua đối thoại chính trị.
RFI : Bài học mà Việt Nam cần rút ra
?
Thayer : Việt
Nam sẽ kết luận rằng các lực lượng bán quân sự của họ - Cảnh sát Biển và Kiểm
ngư - không đủ để ngăn việc Trung Quốc đặt một giàn khoan trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam trong tương lai.
Việt Nam cũng sẽ kết luận rằng mặc dù được
nhiều quốc gia hỗ trợ về mặt chính trị, ASEAN đa phần sẽ không thay đổi chính
sách và đối đầu với Trung Quốc trên việc Bắc Kinh không tuân thủ luật pháp quốc
tế cũng như các cam kết không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
Việt Nam cũng sẽ kết luận rằng cuộc khủng
hoảng giàn khoan đã đánh động được Nhật Bản để nước này trợ giúp vật chất cho
Việt Nam, cụ thể là tàu tuần duyên (bằng tín dụng mềm lấy từ quỹ ODA). Việt Nam
có thể hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ tăng cường cam kết về an ninh hàng hải và trợ
giúp Việt Nam trong việc giám sát vùng biển của mình.
Bài học căn bản mà Việt Nam sẽ phải nhớ
là phải luôn luôn cảnh giác với Trung Quốc vì hành động triển khai giàn khoan dầu
vừa qua đã làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai nước. Việt Nam sẽ phải đánh
giá lại chính sách quan hệ đối ngoại đa phương của mình.
Khuôn khổ đó đã thành công khi các cường
quốc bên ngoài hợp tác với Việt Nam, nhưng lại không thích hợp trường hợp (giàn
khoan) hiện tại. Việt Nam phải xem xét các chiến lược mới để làm đối trọng với
Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét